Bản án về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (nhà) số 206/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 206/2023/DS-PT NGÀY 08/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THUÊ TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT (NHÀ)

Ngày 8 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 119/2023/TLPT-DS ngày 26 tháng 5 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (nhà)”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2023/DS-ST ngày 06 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đua vụ án ra xét xử phúc thẩm số 143/2022/QDXXPT-DS ngày 26 tháng 5 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 174/2023/QĐ-PT ngày 16 tháng 6 năm 2023; Thông báo mở lại phiên tòa số 678/2023/TB-TA ngày 23 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Thương mại B H X; địa chỉ: số 128, Trần Quang K, phường Tân Đ, Quận 1, thành phố H C M. Do Ông Nông Văn D; Chức vụ: Tổng Giám đốc - Làm đại diện theo pháp luật.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Chu Thị H - Chức vụ: Trưởng nhóm - Ban pháp chế. Địa chỉ liên lạc: Tòa nhà MWG, Lô T2-1.2, đường D1, khu Công nghệ cao phường Tân P, thành phố Thủ Đ, thành phố H C M (theo giấy ủy quyền Số/No: 132/2021/BHX/UQ ngày 03/12/2021) (có mặt);

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1959 và bà Huỳnh Ngọc L, sinh ngày 12/3/1963; cùng cư trú: số 151, tổ 4, ấp Phú A A, xã Phú V, thị xã T C, tỉnh A G (có mặt).

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn:

3. Ông Nguyễn Phú H - Luật sư; thuộc Đoàn luật sư thành phố H C M.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo hồ sơ án sơ thẩm thể hiện: Theo đơn khởi kiện, khởi kiện bổ sung và trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án đại diện nguyên đơn chị Chu Thị H trình bày và yêu cầu:

Tháng 4 năm 2019, Đại diện B H X do ông Võ Duy C - Chức vụ Giám đốc bán hàng khu vực làm đại diện cùng với ông Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Ngọc L ký hợp đồng thuê quyền sử dụng đất được Công chứng tại Văn phòng Công chứng Nguyễn Công T. Về việc thuê quyền sử dụng đất tại thửa số 70, tờ bản đồ số 04, tọa lạc tại ấp P A A, xã Phú V, thị xã T C, tỉnh A G.

Đối tượng của hợp đồng thuê QSDĐ là toàn bộ nhà đất với diện tích chiều ngang mặt tiền là 14,7m, tổng diện tích bên A cho bên B thuê là 244,8m2 (theo các giấy chứng nhận QSDĐ số: 03168 ngày 29/5/2003 diện tích: 74,7m2, số 03145 ngày 08/12/2003 diện tích 67,2m2, số 3847 ngày 06/10/2006 diện tích 74,4m2 và số 3848 ngày 06/10/2006 diện tích 28,5m2).

Thời hạn thuê 10 năm 01 tháng và 17 ngày (từ ngày 15/8/2019 đến hết ngày 31/8/2029); giá thuê 04 năm đầu 28.000.000 đồng/tháng; 03 năm tiếp theo 30.800.000 đồng/tháng và 03 năm cuối 33.880.000 đồng/tháng. Bên B đã chi tiền đặt cọc cho bên A: 56.000.000 đồng.

Sau thời gian kinh doanh tại mặt bằng trên, B H X kinh doanh liên tục thua lỗ, dù đã cải thiện tình hình hoạt động kinh doanh nhưng cũng không mang lại kết quả khả quan vẫn tiếp tục thua lỗ. Việc bán hàng doanh thu tại siêu thị P V năm 2020 giảm dần.

Ngày 22/06/2020, B H X do ông Nguyễn Hoàng K, chức vụ: Giám đốc bán hàng khu vực tại A G làm đại diện gửi Công văn số 22062020/CV_BHX thông báo về việc đơn phương chấm dứt Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất. Ngày 01/07/2020 và 02/07/2020, bên cho thuê gửi thư phản hồi với các nội dung trên và không đồng ý chấm dứt Hợp đồng thuê trước thời hạn.

Ngày 20/07/2020, B H X do ông Nguyễn Hoàng K làm đại diện gửi Công văn lần thứ hai số 20072020/CV_BHX để thông báo về việc: Khẳng định B H X sẽ vẫn tiếp tục thanh lý Hợp đồng thuê theo công văn ngày 22/06/2022, B H X đã xúc tiến việc tìm kiếm các đối tác có nhu cầu thuê mặt bằng thuê nhưng chưa có kết quả. Ngày 23/07/2020, bên cho thuê nhận được Công văn số 20072020/CV_BHX. Đồng thời hai bên lập biên bản làm việc ghi nhận ý kiến của bên cho thuê như sau: “Phía công ty tháo đi các trang thiết bị phục vụ kinh doanh, để lại phần liên quan đến cơ sở hạ tầng, xây dựng cơ bản phải để lại, điện nước, tường, cửa, đèn, máy lạnh; tìm bên thứ ba tiếp tục thuê mặt bằng thuê; khôi phục lại hiện trạng ban đầu cho chủ nhà; không đồng ý trả lại cọc và tiền còn lại chua sử dụng hết khi chưa có đối tác thứ ba thay thế”.

- Từ ngày 23/7/2020 đến ngày 27/07/2020, B H X tiến hành di dời hàng hóa kinh doanh ra khỏi mặt bằng thuê.

- Ngày 31/07/2020, B H X tiến hành di dời các trang thiết bị phục vụ kinh doanh của B H X ra khỏi mặt bằng thuê, ông Đ và bà L không đồng ý và khóa cửa mặt bằng thuê.

- Ngày 18/12/2020, B H X khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Đ và bà L có trách nhiệm trả số tiền từ hợp đồng thuê quyền sử dụng đất là 86.800.000 đồng. Đồng thời yêu cầu ông Đ, bà L mở cửa mặt bằng thuê để B H X lấy toàn bộ trang thiết bị phục vụ kinh doanh (giá trị tạm tính trang thiết bị khoảng 724.275.512 đồng).

- Ngày 31/01/2021 B H X di dời tài sản ra khỏi mặt bằng thuê theo như biên bản làm việc ngày 26/01/2021 và 31/01/2021.

- Ngày 01/02/2021, B H X và bên cho thuê ký biên bản giao nhận ghi nhận các trang thiết bị B H X nhận và bên cho thuê đang giữ.

- Ngày 06/01/2022, B H X có đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với trang thiết bị phục vụ kinh doanh do B H X đã nhận về không yêu cầu Tòa án giải quyết của số trang thiết bị B H X đã rút một phần trị giá 724.275.512 - 113.917.328 = 610.358.184 đồng.

Nay B H X yêu cầu cụ thể sau: Yêu cầu ông Đ và bà L trả lại tiền cọc cho B H X 56.000.000 đồng; Trả lại 28.000.000 đồng tiền thuê thanh toán trước chưa sử dụng và số tiền lãi theo quy định pháp luật của số tiền cọc và thuê chưa sử dụng là 84.000.000 đồng (từ ngày 01/8/2020 đến ngày xét xử) với mức lãi suất 10%/năm; Trả lại trị giá 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP bằng tiền có trị giá thỏa thuận là 94.000.000 đồng và ông Đức và bà Loan toàn quyền sử dụng 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP trên. Yêu cầu Tòa án xử lý số tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 700.000 đồng (do B H X tạm ứng chi) theo quy định pháp luật.

Đối với yêu cầu phản tố sửa đổi bổ sung của ông Đ và bà L yêu cầu B H X có nghĩa vụ thanh toán cho ông Đ và bà L cụ thể sau:

Trả tiền thuê QSDĐ 756.000.000 đồng, tiền lãi chậm trả tương ứng theo từng thời kỳ (lãi tính đến ngày 01/11/2022) là 72.000.000 đồng và tài sản, trang thiết bị phục vụ kinh doanh có trong siêu thị là 610.358.184 tổng cộng là: 1.438.358.184 đồng và được nhận 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP có trị giá theo thỏa thuận là 94.000.000 đồng, đồng thời B H X phải tiếp tục trả tiền thuê QSDĐ và tiền lãi trả chậm tương ứng theo từng thời kỳ kể từ sau ngày 01/11/2022 cho đến khi xét xử xong.

B H X không đồng ý yêu cầu phản tố của ông Đ và bà L và cho rằng:

- Các Công văn số 22062020/CV_BHX ngày 22/06/2020 và Công Văn số 20072020/CV_BHX ngày 20/07/2020 với nội dung B H X chấm dứt Hợp đồng thuê vào ngày 30/07/2020. Bên cho thuê đã nhận được Công văn số 22062020/CV_BHX vào ngày 28/06/2020 và Công văn số 20072020/CV_BHX vào ngày 23/07/2020 có phản hồi không đồng ý nhưng không nêu lý do có người đại diện có thẩm quyền của B H X.

B H X xác định tại thời điểm phía B H X gửi các văn bản trên do ông K ký là do lúc bấy giờ phía B H X chưa gửi kèm theo Quyết định số 05/2020/TGĐ/QĐ- BHX ngày 01/3/2020 của Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Thương mại B H X cho phía ông Đ, bà L biết nhưng phía B H X khẳng định ông Nguyễn Hoàng K là người có thẩm quyền việc ký văn bản trên đối với tất cả các B H X tại khu vực bán hàng tỉnh An Giang của Công ty cổ phần Thương mại B H X (theo Quyết định số 05/2020/TGĐ/QĐ-BHX ngày 01/3/2020 của Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Thương mại B H X). Nội dung tại Quyết định trên, ông Nguyễn Hoàng K, làm đại diện và ký tên đóng dấu Chi nhánh Công ty cổ phần Thương mại B H X - Cửa hàng B H X An Giang ký các Công văn trên so với hợp đồng các bên đã ký thì ông Nguyễn Hoàng K đủ thẩm quyền.

Đại diện B H X có thực hiện hỗ trợ việc tìm bên thứ 3 tiếp tục thực hiện hợp đồng như đã quy định theo hợp đồng đã ký, cụ thể là tài liệu, chứng cứ (Ảnh chụp tìm bên thứ ba thuê lại mặt bằng ngày 23/7/2020) đăng trên Facebook và có mời Đ M X đến gặp các bên để trao đổi về việc Đ M X thuê lại nhưng kết quả không thành.

- Các trang thiết bị phục vụ kinh doanh kể cả hệ thống 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP do B H X đầu tư và thuộc quyền sở hữu của B H X. Căn cứ Điều 6.1.f, khi Hợp đồng Thuê hết hạn B H X sẽ để lại phần xây dựng cơ bản: Cửa, nền gạch, laphong, đèn chiếu sáng, trang thiết bị nhà vệ sinh cho bên cho thuê. Các trang thiết bị phục vụ kinh doanh kể cả 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP như đã nêu trên không nằm trong danh mục xây dựng cơ bản được nêu trong điều khoản hợp đồng. Do vậy, B H X không có nghĩa vụ để lại các trang thiết bị phục vụ kinh doanh kể cả 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP cho bên cho thuê khi chấm dứt hợp đồng.

Do vậy, yêu cầu về việc thanh toán tiền thuê, tiền lãi và trả lại các trang thiết bị phục vụ kinh doanh kể cả 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP cho ông Đ và bà L thì B H X hoàn toàn không đồng ý.

- Việc bên cho thuê lấy lý do hai bên thuê chưa hoàn tất việc ký thanh lý hợp đồng để yêu cầu B H X thanh toán tiền thuê là không đúng. Việc ký thanh lý hợp đồng là không bắt buộc. Quyền và nghĩa vụ của các bên khi chấm dứt hợp đồng đã được quy định rõ trong Hợp đồng thuê. Do vậy, các bên có trách nhiệm thực hiện đúng cho dù có hoặc không có ký biên bản thanh lý.

- B H X thực tế đã không còn sử dụng mặt bằng thuê từ cuối tháng 07 năm 2020. Bên cho thuê cũng thừa nhận B H X đã không còn sử dụng mặt bằng thuê từ ngày 23/07/2020. Nhưng do bên cho thuê không đồng ý chấm dứt hợp đồng nên B H X chưa thể di dời trang thiết bị phục vụ kinh doanh của B H X. Đến ngày 31/01/2021, sau nhiều lần làm việc, B H X mới được bên cho thuê đồng thuận về việc di dời trang thiết bị phục vụ kinh doanh của B H X, trừ 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP.

Nay B H X yêu cầu: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của B H X và không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Đ và bà L.

- Theo đơn phản tố, đơn phản tố sửa đổi bổ sung và trong quá trình t tụng đồng bị đơn ông Nguyễn Tn Đ và bà Huỳnh Ngọc L trình bày và yêu cầu phản tố:

Ông Đ và bà L xác định ngày 26/4/2019, Đại diện B H X do ông Võ Duy C - Chức vụ Giám đốc bán hàng khu vực làm đại diện cùng với ông Đ và bà L ký hợp đồng thuê quyền sử dụng đất đã được Công chứng tại Văn phòng công chứng Nguyễn Công T như lời trình bày trên của đại diện B H X.

Đối với các Công văn số 22062020/CV_BHX ngày 22/6/2020 về việc “Hủy hợp đồng trước thời hạn” và Công văn số 20072020/CV_BHX ngày 20/7/2020 về việc “Đơn phương thanh lý hợp đồng trước thời hạn” do ông Nguyễn Hoàng K, làm đại diện và ký tên đóng dấu Chi nhánh Công ty cổ phần Thương mại B H X - Cửa hàng B H X A G; ông Đ và bà L gửi thư phản hồi không đồng ý chấm dứt Hợp đồng thuê trước thời hạn và thanh lý hợp đồng trước thời hạn.

Lý do: Các Văn bản trên không gửi kèm theo văn bản ủy quyền của B H X về việc ông Nguyễn Hoàng K làm đại diện theo ủy quyền của B H X trong các văn bản trên.

Từ ngày 23/7/2020 đến ngày 27/7/2020, nhân viên của B H X tiến hành di dời hàng hóa của B H X thì ông Đ và bà L không ngăn cản, đến ngày 31/7/2020 thì B H X di dời các trang thiết bị phục vụ kinh doanh thì ông Đ và bà L khóa cửa B H X không đồng ý cho B H X di dời các trang thiết bị trên ra khỏi mặt bằng. Lý do: Hợp đồng chưa thanh lý, trang thiết bị chỉ khi nào B H X thực hiện hết thời gian thuê theo hợp đồng mới được nhận lại, mặt khác không hỗ trợ tìm bên thứ 3 với mục đích hỗ trợ bên cho thuê lấy từ nguồn cho thuê mới để hoàn trả cho bên thuê, do không tìm được đối tác.

Nay, B H X yêu cầu ông Đ và bà L có nghĩa vụ: Trả lại tiền cọc 56.000.000 đồng, ông Đ và bà L đồng ý. Đối với các yêu cầu trả lại 28.000.000 đồng tiền thuê thanh toán trước chưa sử dụng, trả lại số tiền lãi theo quy định pháp luật của số tiền cọc và thuê chưa sử dụng là 84.000.000 đồng (từ ngày 01/8/2020 đến ngày xét xử) với mức lãi suất 10%/năm và trả lại 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP có trị giá theo thỏa thuận là 94.000.000 đồng. Ông Đ và bà L không đồng ý.

Ngoài ra, ông Đức và bà Loan có các yêu cầu phản tố, phản tố sửa đổi, bổ sung đối với B H X cụ thể sau:

1. Trả tiền thuê QSDĐ từ ngày 01/8/2020 đến ngày 01/4/2023 mỗi tháng 28.000.000 đồng là: 896.000.000 đồng và tiền lãi chậm trả tương ứng cho từng kỳ thanh toán từ ngày 01/8/2020 đến ngày 01/11/2022 với số tiền 72.000.000 đồng và phải tiếp tục trả tiền thuê QSDĐ và tiền lãi trả chậm tương ứng theo từng thời kỳ kể từ sau ngày 01/4/2023.

2. Trả bằng tiền các trang thiết bị dùng kinh doanh trong siêu thị do B H X đã lấy đi gồm: 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP trị giá theo thỏa thuận 94.000.000 đồng (nhận bằng hiện vật là 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP trên); Tủ mát Sanaky 2 cánh VH 1209HP3 03 tủ trị giá 37.500.000 đồng; Tủ ShoWcase nằm Carrier 02 tủ trị giá 116.685.337 đồng; Tủ đông Sanaky VH 4899k3 02 tủ trị giá 13.600.000 đồng; Máy phát điện HK7500DX 01 cái trị giá 17.090.909 đồng; Đèn spot Light 48 bộ trị giá 12.080.000 đồng; Sóng nhựa 140 cái trị giá 6.745.455 đồng; Kệ trưng bày 05 kệ gạo, 04 kệ kho 6 tầng, 20 cái Pallet có tổng trị giá 329.251.500 đồng; Quầy cá có dán decal (bao gồm 04 khay inox mới) trị giá 51.261.107 đồng; CP màn sáo bao gồm 22,8 mét trị giá 11.031.000 đồng; Mi ca 01 bộ trị giá 10.378.300 đồng; Tủ sắt nhân viên 01 cái trị giá 1.403.636 đồng; Các phụ kiện khác gồm: Thanh ngang có máng đèn, ti răng, ống nước..., trị giá 3.330.940 đồng. Tổng cộng: 704.358.184 đồng (trong đó nhận bằng tiền là 610.358.184 đồng và nhận bằng hiện vật là 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP có trị giá 94.000.000 đồng) hiện 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP ông Đức và bà Loan giữ.

Tổng số tiền yêu cầu phải trả tiền thuê QSDĐ 896.000.000 đồng, tiền lãi chậm trả là 72.000.000 đồng và các trang thiết bị phục vụ kinh doanh có trong siêu thị là 610.358.184 và được sở hữu 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP có trị giá theo thỏa thuận là 94.000.000 đồng, đồng thời B H X phải tiếp tục trả tiền thuê QSDĐ và tiền lãi trả chậm tương ứng theo từng thời kỳ kể từ sau ngày 01/4/2023.

Rút lại một phần yêu cầu phản tố cụ thể sau:

- Rút lại yêu cầu 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP trị giá 113.917.328 đồng;

- Rút lại yêu cầu tiền công lắp đặt máy điều hòa là 5.000.000 đồng;

- Rút lại yêu cầu bồi thường 21 bóng đèn tròn spot light đã lấy đi trị giá 3.990.000 đồng).

Tại bản án dân sự sơ thẩm số: số 24/2023/DS-ST ngày 06 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang đã quyết định:

- Căn cứ khoản 3 Điều 26, Điều 39, Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 123; Điều 128; Điều 223; Điều 718 Bộ luật dân sự năm 2005.

- Áp dụng Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần Thương mại B H X về việc yêu cầu ông Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Ngọc L trả lại cho B H X các trang thiết bị phục vụ kinh doanh trị giá 610.358.184 đồng gồm: Tủ mát Sanaky 2 cánh VH 1209HP3 03 tủ trị giá 37.500.000 đồng; Tủ Sho Wcase nằm Carrier 02 tủ trị giá 116.685.337 đồng; Tủ đông Sanaky VH 4899k3 02 tủ trị giá 13.600.000 đồng; Máy phát điện HK7500DX 01 cái trị giá 17.090.909 đồng; Đèn Spot Light 48 bộ trị giá 12.080.000 đồng; Sóng nhựa 140 cái trị giá 6.745.455 đồng; Kệ trưng bày 05 kệ gạo, 04 kệ kho 6 tầng, 20 cái Pallet có tổng trị giá 329.251.500 đồng; Quầy cá có dán decaí (bao gồm 04 khay inox mới) trị giá 51.261.107 đồng; CP màn sáo bao gồm 22,8 mét trị giá 11.031.000 đồng; Mi ca 01 bộ trị giá 10.378.300 đồng; Tủ sắt nhân viên 01 cái trị giá 1.403.636 đồng; Các phụ kiện khác gồm: Thanh ngang có máng đèn, ti răng, ống nước..., trị giá 3.330.940 đồng.

Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Ngọc L đối với: Yêu cầu Công ty cổ phần Thương mại B H X giao trả 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP trị giá 113.917.328 đồng, tiền công lắp đặt máy điều hòa là 5.000.000 đồng, yêu cầu bồi thường 21 bóng đèn tròn spot light đã lấy đi trị giá 3.990.000 đồng và yêu cầu tính lãi chậm trả tương ứng theo từng thời kỳ kể từ sau ngày 01/11/2022 cho đến khi xét xử đối với số tiền 756.000.000 đồng cho thuê do B H X chưa thanh toán kể từ sau ngày 01/11/2022 đến ngày xét xử.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần Thương mại B H X cụ thể như sau:

1.1 Buộc ông Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Ngọc L có trách nhiệm trả cho Công ty Cổ phần Thương mại B H X 56.000.000 đồng tiền cọc và 28.000.000 đồng tiền trả trước thuê Quyền sử dụng đất. Tổng cộng: 84.000.000 (tám mươi bốn triệu) đồng.

1.2 Buộc ông Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Ngọc L trả cho Công ty cổ phần Thương mại B H X 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP bằng tiền trị giá là 94.000.000 (chín mươi bốn triệu) đồng. Ông Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Ngọc L được sở hữu 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP như đã nêu trên hiện ông Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Ngọc L đang quản lý.

2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần Thương mại B H X đối với yêu cầu tính lãi phát sinh số tiền 84.000.000 đồng kể từ ngày 01/8/2020 đến ngày 01/4/2023 với mức lãi suất 10%/năm. số tiền: 22.310.400 (hai mươi hai triệu ba trăm mười nghìn bốn trăm) đồng.

3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Ngọc L cụ thể như sau:

3.1 Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Ngọc L buộc Công ty cổ phần Thương mại B H X trả tiền thuê Quyền sử dụng đất 896.000.000 (tám trăm chín mươi sáu triệu) đồng và tiền lãi phát sinh là: 72.000.000 (bảy mươi hai triệu) đồng.

3.2 Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Ngọc L buộc Công ty cổ phần Thương mại B H X trả bằng tiền các trang thiết bị phục vụ kinh doanh trong siêu thị do Công ty B H X đã lấy đi có trị giá 610.358.184 (sáu trăm mười triệu ba trăm năm mươi tám nghìn một trăm tám mươi bốn) đồng gồm: Tủ mát Sanaky 2 cánh VH 1209HP3 03 tủ trị giá 37.500.000 đồng; Tủ Sho Wcase nằm Carrier 02 tủ trị giá 116.685.337 đồng; Tủ đông Sanaky VH 4899k3 02 tủ trị giá 13.600.000 đồng; Máy phát điện HK7500DX 01 cái trị giá 17.090.909 đồng; Đèn spot Light 48 bộ trị giá 12.080.000 đồng; Sóng nhựa 140 cái trị giá 6.745.455 đồng; Kệ trưng bày 05 kệ gạo, 04 kệ kho 6 tầng, 20 cái Pallet có tổng trị giá 329.251.500 đồng; Quầy cá có dán decal (bao gồm 04 khay inox mới) trị giá 51.261.107 đồng; CP màn sáo bao gồm 22,8 mét trị giá 11.031.000 đồng; Mi ca 01 bộ trị giá 10.378.300 đồng; Tủ sắt nhân viên 01 cái trị giá 1.403.636 đồng; Các phụ kiện khác gồm: Thanh ngang có máng đèn, ti răng, ống nước..., trị giá 3.330.940 đồng và nhận tài sản là 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP có trị giá 94.000.000 (chín mươi bốn triệu) đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, chi phí thẩm định, đo đạc và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 14/4/2023 ông Nguyễn Tấn Đ, bà Huỳnh Ngọc L, kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm ngày 6/4/2023; không đồng ý với quyết định của Tòa án sơ thẩm, yêu cầu xem xét lại toàn bộ quá trình giải quyết vụ án của cấp sơ thẩm; ông bà còn yêu cầu xem xét cho ông, bà được miễn, giảm tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án với lý do thuộc diện người cao tuổi.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không rút yêu cầu khởi kiện, bị đơn giữ nguyên yêu cầu phản tố và yêu cầu kháng cáo; các đương sự cũng không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án; các bên đương sự không xuất trình chứng cứ nào mới.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn trình bày: Không chấp nhận buộc ông Đ, bà L trả cho Công ty BHX 56.000.000 đồng tiền cọc và 28.000.000 đồng tiền thừa của tháng 8/2020, về 04 bộ máy lạnh âm trần 5HP trị giá bằng tiền 94.000.000 đồng đề nghị xem xét theo pháp luật; yêu cầu CT.CPTMBHX có nghĩa vụ trả tiền thuê nhà, đất theo giá thỏa thuận trong hợp đồng từ ngày 01/9/2020 đến ngày 01/4/2023 là 32 tháng, mỗi tháng 28.000.000 đồng = 896.000.000 đồng và trả lãi chậm thanh toán từng thời kỳ theo mức lãi suất 10% thành tiền là 72.000.000 đồng, ông Đ, bà L trình bày bổ sung: Về 04 bộ máy lạnh âm trần 5HP, trị giá 94.000.000 đồng, ông không có nhu cầu sử dụng do máy này sử dụng điện 3 pha, nên yêu cầu Tòa án xem xét theo pháp luật; còn lại thống nhất với yêu cầu trên của Luật sư.

Đại diện CT.CPTMBHX trình bày: Không chấp nhận các yêu cầu kháng cáo nói trên của ông Đức, bà Loan; yêu cầu chấp nhận khởi kiện của Công ty như án sơ thẩm đã tuyên. Công ty có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê trước thời hạn theo điểm g khoản 1 Điều 6 của hợp đồng đã ký với ông Đ, bà L và Công ty khẳng định việc ông Nguyễn Hoàng K ký Công văn số 22062020/CV_BHX ngày 22/6/2020 về việc “Hủy hợp đồng trước thời hạn” và Công văn số 20072020/CV_BHX ngày 20/7/2020 về việc “Đơn phương thanh lý hợp đồng trước thời hạn” là hoàn toàn đúng và đủ thẩm quyền.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm và đề xuất hướng giải quyết vụ án:

- Về thủ tục tố tụng: Kháng cáo của ông Nguyễn Tấn Đ, bà Huỳnh Ngọc L là phù hợp pháp luật; Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Thư ký, Hội đồng xét xử đã chấp hành đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử. Các đương sự đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng.

- Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; sửa bản án dân sự sơ thẩm số: 24/2023/DS-ST ngày 06 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang: Chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Tấn Đ, bà Huỳnh Ngọc L;

- Về không chấp nhận khởi kiện của Công ty CPTMBHX yêu cầu ông Đ, bà L trả lại cho Công ty CPTMBHX 56.000.000 đồng tiền cọc và 28.000.000 đồng tiền trả trước thời gian thuê chưa sử dụng, tổng 84.000.000 đồng;

- Về không chấp nhận khởi kiện của Công ty CPTMBHX yêu cầu buộc Đ, bà L trả giá trị 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP là 94.000.000 đồng cho Công ty B H X;

- Về chấp nhận phản tố của ông Nguyễn Tấn Đ, bà Huỳnh Ngọc L:

+ Buộc Công ty B H X trả tiền thuê căn nhà, quyền sử dụng đất 896.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh là 72.000.000 đồng;

+ Ông Nguyễn Tấn Đ, bà Huỳnh Ngọc L không phải trả tiền 94.000.000 đồng cho Công ty CPTMBHX là giá trị 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP;

+ Buộc Công ty CPTMBHX nhận lại 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP và Công ty CPTMBHX với Nguyễn Tấn Đ, bà Huỳnh Ngọc L cùng có trách nhiệm di dời 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP ra khỏi mặt bằng thuê của ông Đ, bà L;

- Sửa án phí sơ thẩm; các phần khác của bản án sơ thẩm giữ nguyên;

- Bị đơn ông Đ, bà L không phải chịu án phí phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, lời trình bày của đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Ông Nguyễn Tấn Đ, bà Huỳnh Ngọc L làm đơn kháng cáo trong thời hạn luật định và có đơn xin miễn án phí do là người cao tuổi, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận, đúng quy định tại Điều 285 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn: Tháng 4 năm 2019, Đại diện B H X do ông Võ Duy C - Chức vụ Giám đốc bán hàng khu vực làm đại diện cùng với anh Nguyễn Tấn Đ và chị Huỳnh Ngọc L ký hợp đồng thuê quyền sử dụng đất được công chứng tại Văn phòng công chứng Nguyễn Công T, về việc thuê quyền sử dụng đất tại thửa số 70, tờ bản đồ số 04, tọa lạc tại ấp Phú An A, xã Phú Vĩnh, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang; đối tượng của hợp đồng thuê QSDĐ là toàn bộ nhà, đất với diện tích chiều ngang mặt tiền là 14,7m, tổng diện tích bên A cho bên B thuê là 244,8m2.

Các bên ký kết hợp đồng trên cơ sở tự nguyện, hình thức và nội dung hợp đồng không trái quy định của pháp luật; việc giao kết hợp đồng này không bị lừa dối, không bị ép buộc; nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng.

[2.1] Sau thời gian thực hiện hợp đồng do kinh doanh không hiệu quả; B H X (BHX) gửi Công văn số 22062020/CV_BHX ngày 22/6/2020 về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất và công văn số 20072020/CV_BHX ngày 20/7/2020 về việc: B H X sẽ vẫn tiếp tục thanh lý hợp đồng thuê, 02 công văn trên không thể hiện người có thẩm quyền đại diện cho B H X ký. Ông Đ và bà L nhận được các văn bản trên có phản hồi không đồng ý về việc B H X chấm dứt hợp đồng. Theo giao ước sau khi chấm dứt hợp đồng, BHX có thực hiện hỗ trợ việc tìm bên thứ 3 tiếp tục thực hiện hợp đồng như quy định theo hợp đồng đã ký, cụ thể là tài liệu, chứng cứ số 15 (Ảnh chụp tìm bên thứ ba thuê lại mặt bằng ngày 23/7/2020) đăng trên Facebook nhưng không có kết quả. Công ty Cổ phần Thương mại B H X (CT.CPTMBHX) xác định tại thời điểm phía CT.CPTMBHX gửi các văn bản trên do ông K ký là do lúc bấy giờ phía Công ty Cổ phần Thương mại B H X chưa gửi kèm theo Quyết định số 05/2020/TGĐ/QĐ-BHX ngày 01/3/2020 của Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Thương mại B H X cho phía ông Đ, bà L biết, nhưng phía CT.CPTMBHX khẳng định ông Nguyễn Hoàng K là người có thẩm quyền việc ký văn bản trên đối với tất cả các B H X tại khu vực bán hàng tỉnh An Giang. Nội dung tại Quyết định trên, ông Nguyễn Hoàng K, làm đại diện và ký tên đóng dấu Chi nhánh Công ty cổ phần Thương mại B H X - Cửa hàng B H X A G ký các công văn trên so với hợp đồng các bên đã ký thì ông Nguyễn Hoàng K đủ thẩm quyền.

[2.2] Không đồng ý chấm dứt hợp đồng ngày 31/07/2020, ông Đ và bà L khóa cửa mặt bằng thuê không đồng ý cho B H X di chuyển trang thiết bị phục vụ kinh doanh của BHX ra khỏi mặt bằng thuê.

- Ngày 16/10/2020, B H X và bên cho thuê có tiến hành hòa giải tại Văn phòng ấp Phú A A, xã P V, thị xã T C, tỉnh A G nhưng hòa giải không thành. Trong nội dung biên bản hòa giải ghi nhận bên cho thuê không đồng ý mở cửa cho B H X lấy trang thiết bị phục vụ kinh doanh.

Từ những vấn đề trên, cấp sơ thẩm nhận định phía B H X có lỗi một phần trong việc đơn phương chấm dứt hợp đồng (không có văn bản ủy quyền kịp thời kèm theo đối với 02 công văn trên) nên yêu cầu tính lãi đối với số tiền cọc và tiền thuê trả trước, tổng cộng 84.000.000 đồng từ ngày 01/8/2020 đến ngày xét xử không được chấp nhận là có cơ sở.

Ông Đ và bà L (bên cho thuê), ngày 31/07/2020 khóa cửa mặt bằng thuê không đồng ý cho B H X di dời các trang thiết bị phục vụ kinh doanh của B H X ra khỏi mặt bằng thuê là có lỗi theo hợp đồng đã ký; lẽ ra khi có tranh chấp xảy ra, ông Đ và bà L có quyền khởi kiện B H X tại Tòa án có thẩm quyền. Bên cho thuê đã khóa cửa mặt bằng thuê kể từ ngày 31/7/2020, tại thời điểm lúc bấy giờ phía B H X nếu có sử dụng mặt bằng thuê trên để hoạt động kinh doanh thì cũng không thực hiện được vì mặt bằng của B H X thuê đã bị bên cho thuê khóa cửa.

[2.3] Căn cứ Điều 422 BLDS 2015 quy định về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng được thực hiện theo thỏa thuận của các bên. Ngoài ra, căn cứ theo Điều 6.1.g Hợp đồng thuê quy định B H X có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng khi đã thông báo bên cho thuê biết trước 01 tháng bằng hai Công văn số 22062020/CV_BHX ngày 22/06/2020 và Công Văn so 20072020/CV_BHX ngày 20/07/2020 với nội dung B H X chấm dứt Hợp đồng t huê vào ngày 30/07/2020. Bên cho thuê xác nhận đã nhận được Công văn số 22062020/CV_BHX vào ngày 28/06/2020 và Công văn số 20072020/CV_BHX vào ngày 23/07/2020 được thể hiện rõ theo quy định trong hợp đồng Thuê.

- B H X đã nhiều lần làm việc với bên cho thuê liên quan đến bàn giao lại mặt bằng thuê nhưng bên cho thuê không nhận bàn giao; lần lượt trong các Biên bản làm việc ngày 28/07/2020 giữa bên cho thuê và đại diện B H X; Biên bản hòa giải ngày 16/10/2020; đến ngày 31 tháng 01 năm 2021, B H X mới được bên cho thuê đồng thuận về việc di dời các trang thiết bị phục vụ kinh doanh, trừ 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP.

[2.4] Do vậy, cấp sơ thẩm phân tích việc bị đơn đưa ra các lý do các bên chưa hoàn tất việc thanh lý hợp đồng thuê để không nhận bàn giao, không cho B H X di dời các trang thiết bị phục vụ kinh doanh thuộc sở hữu của B H X ra khỏi mặt bằng thuê là do bên cho thuê có lỗi là chưa xem xét đầy đủ việc BHX lại đơn phương chấm dứt hợp đồng;

[3] Từ những nhận định, phân tích trên, cấp sơ thẩm lại chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của B H X và không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Đ và bà L cụ thể: Buộc ông Đ và bà L có trách nhiệm trả cho B H X 56.000.000 đồng tiền cọc và 28.000.000 đồng tiền thuê trả trước chưa sử dụng. Tổng cộng: 84.000.000 đồng, là không đảm bảo quyền lợi cho bị đơn.

[3.1] Bởi lẽ, hợp đồng ký thời hạn là 10 năm 01 tháng 17 ngày; nhưng CT.CPTMBHX thực hiện chưa được một năm lại đơn phương xin chấm dứt hợp đồng là làm thiệt hại cho bị đơn, trong khi cơ sở hạ tầng, bị đơn phải đập bỏ những phần chưa phù hợp và xây dựng, sửa chữa lại theo yêu cầu của nguyên đơn để ký hợp đồng dài hạn; hơn nữa trong các điều khoản hợp đồng không có điều nào cho CT.CPTMBHX có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng vô điều kiện; vì vậy, việc Công ty muốn chấm dứt hợp đồng phải có sự bàn bạc thỏa thuận thống nhất với bị đơn về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng chưa được ghi trong hợp đồng; vì Điều 6.1.g (điểm g khoản 1 Điều 6) là nghĩa vụ của Công ty, không phải là quyền theo Công ty hiểu. Lẽ ra, trong hoàn cảnh thay đổi cơ bản cần chấm dứt hợp đồng trước thời hạn, bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý; nếu có phát sinh tranh chấp, các bên phải cùng nhau thương lượng giải quyết trên nguyên tắc tôn trọng quyền lợi của nhau, nhưng Công ty không thực hiện điều khoản này trong hợp đồng (Điều 8); để đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên; vả lại khi ký hợp đồng thì đại diện CT.CPTMBHX do ông Võ Duy C là Giám đốc bán hàng khu vực ký tên đóng dấu Công ty, nhưng khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lại là ông Nguyễn Hoàng K ký 02 công văn nói trên khi chưa được sự ủy quyền hợp pháp của pháp nhân và việc đóng dấu Chi nhánh Công ty Cổ phần Thương mại B H X - Cửa hàng B H X A G là không đúng pháp luật; bởi lẽ, nếu lúc này các Công văn của ông K ký tên nói trên, nếu thời điểm ký Công văn có kèm theo giấy ủy quyền thì cũng phải đóng dấu CT. CPTMBHX mới đúng quy định pháp luật; trong thời gian chưa thỏa thuận được việc chấm dứt hợp đồng thì bên thuê tài sản vẫn thực hiện việc kinh doanh cho đến khi nào thỏa thuận được việc kết thúc, nhưng Công ty dùng 02 công văn trên để tự chấm dứt hợp đồng là do lỗi của Công Ty.

Từ đó, các bên tranh chấp cho đến ngày 31 tháng 01 năm 2021, B H X mới được bên cho thuê đồng thuận về việc di dời các trang thiết bị phục vụ kinh doanh, trừ 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP. Như vậy, phải tính đến thời điểm này là mốc thời gian các bên đã thống nhất với nhau về thỏa thuận được việc chấm dứt thực hiện hợp đồng.

[3.2] Do vậy, cần sửa bản án dân sự sơ thẩm thẩm số: số 24/2023/DS-ST ngày 06 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang;

Chấp nhận một phần khởi kiện của Công ty CPTM B H X, buộc ông Đ và bà L có trách nhiệm trả cho B H X 56.000.000 đồng tiền cọc và trả cho B H X 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP (trị giá là 94.000.000 đồng), hiện ông Đ và bà L đang quản lý, ông Đ bà L có nghĩa vụ giao lại cho Công ty 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP [3.3] Chấp nhận một phận yêu cầu kháng cáo của ông Đ và bà T buộc B H X trả tiền thuê QSDĐ và tài sản gắn liền với đất là nhà:

28.000.000 đồng/1 tháng x 6 tháng = 168.000.000 đồng (tính từ tháng 8 năm 2020 đến tháng 01 năm 2021).

[3.4] Quá trình thi hành án do cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền khấu trừ nợ cho nhau.

[4 ] Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Đ, bà L và đề nghị của Luật sư. Do đó, cần chấp nhận quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát; sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2023/DS-ST ngày 06 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang.

- Những phần quyết định khác của bản án dân sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về chi phí tố tụng: Lần 1 là 700.000 Công ty cổ phần Thương mại B H X đã tạm ứng và tự chịu nên không xem xét. Đối với chi phí xem xét thẩm định lần 2 là 5.000.000 đồng, CT.CPTMBHX đã tạm ứng trước do các bên có một phần lỗi nên mỗi bên phải chịu 1/2 tức ông Đ, bà L có nghĩa vụ hoàn lại cho Công ty 2.500.000 đồng.

[6] Về án phí: Do sửa án sơ thẩm nên ông Đ, bà L không phải chịu án phí phúc thẩm (ông, bà là người cao tuổi và đơn có đơn xin miễn án phí). Công ty CPTM B H X phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, khoản 1 Điều 148, Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Ngọc L.

- Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 24/2023/DS-ST ngày 06 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang.

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, các điều 144, 147, 244, 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 472, 428, 429, 328, Điều 351; Điều 357; Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần Thương mại B H X về việc yêu cầu ông Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Ngọc L trả lại cho B H X các trang thiết bị phục vụ kinh doanh trị giá 610.358.184 đồng gồm: Tủ mát Sanaky 2 cánh VH 1209HP3 03 tủ trị giá 37.500.000 đồng; Tủ Sho Wcase nằm Carrier 02 tủ trị giá 116.685.337 đồng; Tủ đông Sanaky VH 4899k3 02 tủ trị giá 13.600.000 đồng; Máy phát điện HK7500DX 01 cái trị giá 17.090.909 đồng; Đèn Spot Light 48 bộ trị giá 12.080.000 đồng; Sóng nhựa 140 cái trị giá 6.745.455 đồng; Kệ trưng bày 05 kệ gạo, 04 kệ kho 6 tầng, 20 cái Pallet có tổng trị giá 329.251.500 đồng; Quầy cá có dán decaí (bao gồm 04 khay inox mới) trị giá 51.261.107 đồng; CP màn sáo bao gồm 22,8 mét trị giá 11.031.000 đồng; Mi ca 01 bộ trị giá 10.378.300 đồng; Tủ sắt nhân viên 01 cái trị giá 1.403.636 đồng; Các phụ kiện khác gồm: Thanh ngang có máng đèn, ti răng, ống nước..., trị giá 3.330.940 đồng.

- Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Ngọc L đối với: Yêu cầu Công ty cổ phần Thương mại B H X giao trả 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP trị giá 113.917.328 đồng, tiền công lắp đặt máy điều hòa là 5.000.000 đồng, yêu cầu bồi thường 21 bóng đèn tròn spot light đã lấy đi trị giá 3.990.000 đồng và yêu cầu tính lãi chậm trả tương ứng theo từng thời kỳ kể từ sau ngày 01/11/2022 cho đến khi xét xử đối với số tiền 756.000.000 đồng cho thuê do B H X chưa thanh toán kể từ sau ngày 01/11/2022 đến ngày xét xử.

- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần Thương mại B H X cụ thể như sau:

1. Buộc ông Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Ngọc L có trách nhiệm trả cho Công ty Cổ phần Thương mại B H X 56.000.000 đồng tiền cọc và 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP. Ông Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Ngọc L có nghĩa vụ giao lại cho Công ty cổ phần Thương mại B H X 04 bộ máy lạnh Panasonic âm trần 5HP.

2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần Thương mại B H X đối với yêu cầu tính lãi phát sinh số tiền 84.000.000 đồng kể từ ngày 01/8/2020 đến ngày 01/4/2023 với mức lãi suất 10%/năm. Số tiền: 22.310.400 (hai mươi hai triệu ba trăm mười nghìn bốn trăm) đồng.

3. Buộc Công ty Cổ phần Thương mại B H X trả tiền thuê QSDĐ và tài sản gắn liền với đất là nhà cho ông Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Ngọc L: 168.000.000 đồng.

4. Quá trình thi hành án do cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền khấu trừ nợ cho nhau.

5. Về chi phí tố tụng: Lần 1 là: 700.000 Công ty cổ phần Thương mại B H X tự nguyện chịu. Ông Đ, bà L có nghĩa vụ hoàn lại cho Công ty CPTMBHX: 2.500.000 đồng.

- Về án phí phúc thẩm: Ông Đ, bà L không phải chịu.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Công ty cổ phần Thương mại B H X phải chịu: 8.400.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp: 2.470.000 đồng, theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0006434 ngày 04 tháng 01 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Tân Châu; Công ty cổ phần Thương mại B H X còn phải nộp 5.930.000 đồng.

- Ông Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Ngọc L là người cao tuổi nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Ong Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Ngọc L được hoàn lại số tiền đã nộp tạm ứng án phí 14.493.000 (mười bốn triệu bốn trăm chín mươi ba nghìn) đồng theo các biên lai thu tạm ứng án phí số: 0002557 ngày 28/4/2021 số tiền 3.780.000 đồng, số 0006359 ngày 18/4/2022 số tiền 4.070.000 đồng, số 0009461 ngày 10/8/2022 số tiền 1.050.000 đồng và số 0006869 ngày 30/11/2022 số tiền 5.593.000 đồng.

- Những phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (nhà) số 206/2023/DS-PT

Số hiệu:206/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về