TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 548/2023/DS-PT NGÀY 17/11/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THUÊ NHÀ
Ngày 17 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 364/2023/TLPT-DS ngày 6/10/2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2023/DS-ST ngày 13/07/2023 của Tòa án nhân dân quận C, Thành phố H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 462/2023/QĐ-PT ngày 23/10/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 481/2023/QĐPT-HPT ngày 03/11/2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thanh H, sinh năm 1982 Ông Đỗ Việt D, sinh năm 1983 Cùng trú tại: Tổ 30 phường Mai Dịch, quận C, H.
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1959 Trú tại: Số 05 Tổ 23 phường D, quận C, H. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Q: Luật sư Phạm Quang H1, Văn phòng luật sư Q, Đoàn luật sư Thành phố H.
Do có kháng cáo của ông Nguyễn Văn Q là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:
* Nguyên đơn bà Nguyễn Thanh H và ông Đỗ Việt D trình bày như sau:
Ngày 02 tháng 04 năm 2019, bà Nguyễn Thanh H (cùng chồng là Đỗ Việt D) ký kết hợp đồng thuê căn nhà tại địa chỉ số 03 Phố Trần Thái Tông, phường D, quận C, Thành phố H của ông Nguyễn Văn Q với thời hạn thuế 05 năm để kinh doanh dịch vụ nhà hàng ăn uống với giá thuê ban đầu là 48.600.000 VNĐ/tháng, đặt cọc giá trị hợp đồng là 241.500.000 VNĐ.
Do tình hình dịch bệnh Covid trong năm 2019, 2020 và những tháng đầu năm 2021 diễn biến rất phức tạp, cùng yêu cầu của Chính phủ và TP. H về việc tạm dừng hoạt động hoặc chỉ hoạt động bán mang về đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh nhà hàng, ngày 26/01/2021 vợ chồng ông bà đến gặp ông Q đặt vấn đề cho ông bà được tìm người sang nhượng lại cửa hàng, ông Q đồng ý. Ông bà đã đăng thông tin trên mạng internet, dán tờ rơi nhiều biển sang nhượng tại số 3 Trần Thái Tông và nhiều lần nhắn tin/gọi điện nhờ ông Q giới thiệu người thuê/nhận sang nhượng (nếu có). Tuy nhiên, do tình hình dịch bệnh căng thẳng, trong khi chi phí thuê nhà tại thời điểm đó quá cao (2.100 USD – 50.800.000 VND/tháng) nên việc tìm người sang nhượng không có kết quả.
Vì vậy, căn cứ mục (4) gạch đầu dòng thứ 2 điều 8 Hợp đồng thuê nhà: “Việc chấm dứt hợp đồng thuê nhà ở được thực hiện khi có một trong các trường hợp sau: ...(4) Hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng trước thời hạn”, ngày 01/3/2021 vợ chồng ông bà đã đến đặt vấn đề với ông Q xin được chấm dứt hợp đồng, dừng hoạt động kinh doanh tại số 3 Trần Thái Tông để chuyển sang địa điểm kinh doanh mới do địa điểm mới giá thuê nhà bằng 1/3 giá thuê tại nhà ông Q. Trong bối cảnh dịch bệnh kéo dài và ông Q đã đồng ý với thỏa thuận như sau:
(1) Vợ chồng ông bà có trách nhiệm tháo dỡ toàn bộ các loại dây, ống mặt ngoài, sơn sửa lại mặt ngoài của căn nhà, sửa lại phần mái che ở mặt tiền tầng 1 để trả lại nhà cho ông Q. Việc sửa chữa bên trong ngôi nhà ông Q nói để ông chủ động sửa cho đúng ý của ông và phù hợp với nhu cầu người thuê mới (2) Sau khi ông bà hoàn thành các công việc trên ông Q có trách nhiệm hoàn trả lại vợ chồng ông bà số tiền đã đặt cọc là 241.500.000 VNĐ.
Việc thỏa thuận trên được tiến hành thông qua việc trao đổi trực tiếp bằng lời nói và sau đó ngày 01/4/2021, bà H nhắn tin cho ông Q về việc ông bà sẽ treo biển trước nhà số 3 Trần Thái Tông để thông báo chuyển sang địa điểm kinh doanh mới và đã được ông Q đồng ý (ảnh chụp màn hình tin nhắn gửi kèm).
Ngay sau khi 02 bên cùng thống nhất các thỏa thuận trên, vợ chồng ông bà đã chủ động tiến hành và đã hoàn thành các công việc theo đúng thỏa thuận và đã được ông Q nghiệm thu (Có chữ viết, chữ ký xác nhận của ông Q về việc nghiệm thu các công việc đã thỏa thuận trên hợp đồng thuê nhà gửi kèm). Sau khi đã tiến hành các hoạt động theo đúng cam kết, vợ chồng ông bà đã yêu cầu ông Nguyễn Văn Q hoàn trả cho ông bà số tiền đặt cọc 241.500.000 VND thì ông Q trốn tránh trách nhiệm và quay ngược lại hoàn toàn với thống nhất ban đầu với bà. Bà H đã nhiều lần đến gặp trực tiếp, gọi điện, nhắn tin với ông Q trao đổi cụ thể và sẵn sàng chia sẻ để hai bên cùng đi đến thống nhất. Nhưng đến nay, sau 07 tháng ông Q vẫn không hoàn trả số tiền đặt cọc trên. Trong thời điểm hai bên chưa đi đến thống nhất ông Q đã cho người mới thuê nhà khi vẫn chưa ký “thanh lý hợp đồng”. Do đó khi hai bên còn quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng mà ông Q đã cho người khác thuê là vi phạm hợp đồng này, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của ông bà.
- Ngoài ra, ông Q còn chiếm đoạt 01 điều hòa âm trần Daikin 27.000BTU của ông bà, cụ thể: Khi ông bà đến thuê nhà ông Q đã trao đổi bán chiếc điều hoà âm trần Daikin 27.000BTU cho bà H và bà H đồng ý mua lại điều hòa này với giá trị (đã trừ khấu hao) tại thời điểm tháng 4/2019 là: 18.000.000đ. Ngày 22/6/2021, ông Q tháo điều hòa này mang về cất ở nhà riêng tại số 5 Tổ 23 Phường D, Quận C, Thành phố H, đồng thời gây áp lực buộc ông bà phải ký thanh lý hợp đồng thuê nhà ông mới trả lại (gửi kèm tin nhắn ông Q thừa nhận giữ điều hòa để gây áp lực).
Tại buổi hòa giải ngày 15/6/2023, nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu ông Q hoàn trả tiền điều hòa âm trần Daikin 27.000 BTU giá trị 18.000.000 đồng. Ông bà giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn Q hoàn trả ông bà số tiền đặt cọc 241.500.000 đồng.
* Bị đơn là ông Q trình bày như sau:
Ông Q xác nhận: Ngày 02 tháng 04 năm 2019, ông Q vợ chồng chị Nguyễn Thanh H và anh Đỗ Việt D ký kết hợp đồng thuê căn nhà; Theo đó, ông đã cho anh chị thuê căn nhà tại địa chỉ số 03 Phố Trần Thái Tông, phường D, quận C, Thành phố H của ông với thời hạn thuê 05 năm để kinh doanh dịch vụ nhà hàng ăn uống với giá thuê ban đầu là 48.600.000 VNĐ/tháng, đặt cọc giá trị hợp đồng là 241.500.000 VNĐ.
Ông Q xác nhận nội dung các tin nhắn trao đổi giữa ông và chị H mà phía nguyên đơn đã gửi tới Tòa án lưu trong hồ sơ vụ án là đúng sự thật.
Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Số tiền đặt cọc 241.500.000 VNĐ là tiền đảm bảo cho 05 năm thuê nhà, gắn liền xuyên suốt 05 năm thuê theo hợp đồng đã ký kết.
Ngày 10/4/2023, ông Q nộp đơn phản tố. Nội dung đơn phản tố cụ thể như sau:
1. Ông yêu cầu bà Nguyễn Thanh H và ông Đỗ Việt D phải thanh toán số tiền sửa chữa nhà ở cho ông Nguyễn Văn Q là 242.000.000 đồng do ông D và bà H đã gây cháy hư hỏng tầng 4 của căn nhà trong thời gian thuê.
2. Yêu cầu bà Nguyễn Thanh H và ông Đỗ Việt D thanh toán trả lại tiền thuê nhà mà ông Q đã bớt cho tháng 02/2021 và tháng 03/2021, số tiền là: 14.000.000 đồng/tháng x 02 tháng = 28.000.000 đồng.
3. Ông bổ sung yêu cầu bà Nguyễn Thanh H và ông Đỗ Việt D trả lại cho tôi tiền thuê nhà tháng đầu tiên (từ 02/4/2019 - 02/5/2019), số tiền là 44.000.000 đồng 4. Ông bổ sung yêu cầu bà Nguyễn Thanh H và ông Đỗ Việt D trả lại cho ông số tiền 44.000.000 đồng/tháng tiền thuê nhà tháng 04/2021 và tháng 05/2021; Số tiền là 44.000.000 đồng/thángx02 tháng = 88.000.000 đồng.
Tổng số tiền mà ông Q yêu cầu ông D và bà H phải thanh toán là 402.000.000 đồng.
Ngoài ra, ông không có yêu cầu nào khác.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2023/DSST ngày 13/7/2023 của Tòa án nhân dân quận C, Thành phố H đã quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thanh H và ông Đỗ Việt D đối với ông Nguyễn Văn Q.
Ông Nguyễn Văn Q có nghĩa vụ thanh toán số tiền đặt cọc là 241.500.000 đồng theo Hợp đồng thuê nhà ngày 2/4/2019 cho bà Nguyễn Thanh H và ông Đỗ Việt D.
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu ông Nguyễn Văn Q hoàn trả điều hòa âm trần Daikin 27.000 BTU của bà Nguyễn Thanh H và ông Đỗ Việt D.
Bác toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn Q về việc yêu cầu bà Nguyễn Thanh H và ông Đỗ Việt D phải thanh toán số tiền sửa chữa nhà ở cho ông Nguyễn Văn Q là 242.000.000 đồng do ông D và bà H đã gây cháy hư hỏng tầng 4 của căn nhà trong thời gian thuê;
Yêu cầu bà Nguyễn Thanh H và ông Đỗ Việt D thanh toán trả lại tiền thuê nhà mà ông Q đã bớt cho tháng 02/2021 và tháng 03/2021, số tiền là: 14.000.000 đồng/tháng x 02 tháng = 28.000.000 đồng;
Yêu cầu bà Nguyễn Thanh H và ông Đỗ Việt D trả lại cho ông Q tiền thuê nhà tháng đầu tiên (từ 02/4/2019 - 02/5/2019), số tiền là 44.000.000 đồng;
Yêu cầu bà Nguyễn Thanh H và ông Đỗ Việt D trả lại cho ông Q số tiền 44.000.000 đồng/tháng tiền thuê nhà tháng 04/2021 và tháng 05/2021. Số tiền là 44.000.000 đồng/thángx02 tháng = 88.000.000 đồng.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Không nhất trí với quyết định của Bản án sơ thẩm, bị đơn ông Nguyễn Văn Q kháng cáo đối với Bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa:
Bị đơn ông Q xin rút yêu cầu kháng cáo đối với khoản tiền ông Q đã bớt cho ông D, bà H tháng 02/2021 và tháng 03/2021 với số tiền là 28.000.000 đồng và tiền thuê nhà tháng 04/2019 và tháng 05/2019 là 44.000.000 đồng.
Bị đơn ông Q người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trình bày: Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm thủ tục tố tụng về việc thu thập, công khai chứng cứ. Ông Q không được tiếp cận chứng cứ là bản gốc Hợp đồng thuê nhà do nguyên đơn xuất trình. Ông Q không có văn bản đồng ý cho bị đơn được chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Tòa án không cho đối chất về việc ai là người sửa mặt trước nhà ngôi nhà. Ông D và bà H đã gây cháy hư hỏng tầng 4 của căn nhà trong thời gian thuê cũng không được điều tra làm rõ. Với những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng như trên cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, đề nghị HĐXX hủy bản án sơ thẩm.
Nguyên đơn bà H, ông D đề nghị HĐXX giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ kiện, đại diện VKS nhân dân Thành phố H đề nghị HĐXX áp dụng Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2023/DSST ngày 13/7/2023 của Tòa án nhân dân quận C, Thành phố H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:
Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn Q nộp trong hạn luật định, về hình thức là hợp lệ.
Về tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm ông Q khai ông ký Biên bản công khai tiếp cận chứng cứ là tự nguyện nhưng ông không đọc nội dung biên bản. Nội dung biên bản thể hiện ông Q đã được tiếp cận chứng cứ có trong hồ sơ vụ kiện cho đến ngày Tòa án tiến hành hòa giải. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện việc công khai chứng cứ theo đúng quy định của BLTTDS.
Về nội dung:
Ngày 02/4/2019 bà Nguyễn Thanh H và ông Nguyễn Văn Q đã xác lập quan hệ hợp đồng thuê nhà. Theo nội dung hợp đồng, ông Q cho vợ chồng bà H và ông D thuê căn nhà tại địa chỉ số 03 phố Trần Thái Tông, phường Dịch Vọng Hâu, quận C, Thành phố H với thời hạn thuê 05 năm để kinh doanh dịch vụ nhà hàng ăn uống với giá thuê ban đầu là 48.600.000 VNĐ/tháng, đặt cọc giá trị hợp đồng là 241.500.000 VNĐ. Do tình hình dịch bệnh Covid trong năm 2019, 2020 và đầu năm 2021 diễn biến phức tạp cùng với yêu cầu của Chính phủ và Thành phố H về việc tạm dừng kinh doanh nên vợ chồng bà H, ông D đã thông báo với ông Q về việc tạm ngừng kinh doanh chuyển đến địa điểm mới được thể hiện thông qua các tin nhắn trong thời gian từ tháng 3/2021 đến đầu tháng 4/2021. Đối với những tin nhắn này, ông Q đều nhắn “OK” để thể hiện sự đồng ý của mình đối với việc bà H, ông D chuyển đi không kinh doanh nữa. Tại Biên bản hòa giải ngày 7/6/2023 tại Tòa án, ông Q xác nhận nội dung các tin nhắn ông trao đổi với chị H mà phía chị H gửi tới Tòa án lưu trong hồ sơ vụ án là đúng sự thật.
Căn cứ Điều 119 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản, hoặc bằng hành vi cụ thể; Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản” Như vậy, thỏa thuận bằng tin nhắn giữa các bên được Hội đồng xét xử xem xét và chấp nhận Căn cứ vào mục 4 gạch đầu dòng thứ 2 Điều 8 Hợp đồng thuê nhà quy định: “việc chấm dứt hợp đồng thuê nhà ở được thực hiện khi có một trong các trường hợp sau:… (4) Hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng trước thời hạn”.
Việc thỏa thuận bằng tin nhắn giữa hai bên là thể hiện việc ông Q đồng ý chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Bên nguyên đơn đã thanh toán đầy đủ tiền thuê nhà hàng tháng với bên bị đơn, việc chấm dứt hợp đồng thuê nhà trước thời hạn cũng được bên bị đơn xác nhận đồng ý bằng tin nhắn, bên nguyên đơn không vi phạm phương thức thanh toán với bên bị đơn nên không thuộc trường hợp phạt tiền đặt cọc, vì vậy bản án sơ thẩm buộc bị đơn phải có trách nhiệm trả lại cho bên nguyên đơn số tiền đặt cọc ban đầu là 10.500 USD tương đương với 241.500.000 đồng là có căn cứ.
Bà H, ông D xin rút yêu cầu về việc ông Q phải hoàn trả điều hòa âm trần Daikin 27.000 BTU giá trị 18.000.000 đồng. Bản án sơ thẩm đình chỉ yêu cầu khởi kiện này là đúng quy định.
Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn:
Đối với yêu cầu bà H ông D phải thanh toán tiền sửa nhà cho ông Q là 242.000.000 đồng do đã làm hư hỏng nhà ông: Tòa án cấp sơ thẩm đã có Quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh thiệt hại và số tiền ông đã sửa chữa nhưng ông Q không cung cấp.
Tại cấp phúc thẩm sau khi được xem bản gốc Hợp đồng thuê nhà có chữ ký Nguyễn Văn Q, ông Q không yêu cầu giám định chữ ký này và xác nhận ngày 22/5/2021 ông có mặt tại nhà số 03 Phố Trần Thái Tông để nhận bàn giao nhà. Như vậy, tại thời điểm bàn giao nhà hai bên không ghi nhận việc nguyên đơn gây cháy nhà tại tầng 4, cũng như những phần việc mà nguyên đơn còn phải làm. Ông Q có xuất trình bản ảnh chứng minh nguyên đơn gây cháy nhà tại tầng 4 nhưng bản ảnh được chụp vào tháng 6/ 2023, là thời điểm sau khi nguyên đơn đã bàn giao nhà cho bị đơn nên không có căn cứ chấp nhận.
Đối với số tiền ông đã bớt tiền thuê nhà cho bà H trong tháng 2 và tháng 3/2021 khi tình hình Covid xảy ra là ý chí tự nguyện của ông, nên không có căn cứ chấp nhận. Tại phiên tòa phúc thẩm ông Q đã rút kháng cáo về vấn đề này.
Đối với yêu cầu bà H, ông D phải trả lại ông tiền thuê nhà tháng đầu tiên (từ 2/4/2019-2/5/2019). Điều 2 của Hợp đồng thuê nhà ngày 2/4/2019 hai bên thỏa thuận “Bên A đồng ý không thu tiền thuê nhà của bên B trong thời gian 01 tháng (1/4/2019- 30/4/2019) để hỗ trợ bên B sửa chữa, cải tạo nhà hàng” ông Q cũng thừa nhận đó là ý chí tự nguyện của ông tại thời điểm đó, nên không có căn cứ chấp nhận. Tại phiên tòa phúc thẩm ông Q đã rút kháng cáo về vấn đề này.
Đối với yêu cầu bà H, ông D trả số tiền thuê nhà hai tháng 4/2021 và tháng 5/2021; thời điểm đó bà H, ông D đã chấm dứt hợp đồng thuê nhà với ông Q nên không có nghĩa vụ thanh toán tiền nhà với ông Q. Do đó không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của ông Q về vấn đề này.
Bản án sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà H, ông D; đình chỉ yêu cầu của bà H, ông D về việc yêu cầu ông Q hoàn trả điều hòa âm trần Daikin 27.000 BTU giá trị 18.000.000 đồng; bác toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Q là có căn cứ.
Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H phù hợp với nhận định của HĐXX.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Q.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông Q về khoản tiền ông Q đã bớt cho ông D, bà H tháng 02/2021, tháng 03/2021 với số tiền là 28.000.000 đồng và tiền thuê nhà tháng 04/2019, tháng 05/2019 là 44.000.000 đồng.
Về án phí:
Án phí dân sự phúc thẩm: Do ông Q là người cao tuổi nên miễn án phí dân sự phúc thẩm cho ông Q.
Án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Nguyễn Thanh H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn trả tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Ông Q không được chấp nhận yêu cầu phản tố nhưng là người cao tuổi nên không phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên, áp dụng Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2023/DSST ngày 13/7/2023 của Tòa án nhân dân quận C, Thành phố H.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Điều 385, 401, 428, 429, 472, 482 Bộ luật dân sự năm 2015.
- Điểm đ Khoản 1 Điều 12, Khoản 1, 2 Điều 26, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thanh H và ông Đỗ Việt D đối với ông Nguyễn Văn Q.
Ông Nguyễn Văn Q có nghĩa vụ thanh toán số tiền đặt cọc là 241.500.000 đồng theo Hợp đồng thuê nhà ngày 02/4/2019 cho bà Nguyễn Thanh H và ông Đỗ Việt D.
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu ông Nguyễn Văn Q hoàn trả điều hòa âm trần Daikin 27.000 BTU của bà Nguyễn Thanh H và ông Đỗ Việt D.
Bác toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn Q.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông Q về khoản tiền ông Q đã bớt cho ông D, bà H tháng 02/2021, tháng 03/2021 với số tiền là 28.000.000 đồng và tiền thuê nhà tháng 04/2019, tháng 05/2019 là 44.000.000 đồng.
Về án phí:
Án phí dân sự phúc thẩm: Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho ông Q. Án phí dân sự sơ thẩm:
Trả lại cho bà Nguyễn Thanh H và ông Đỗ Việt D số tiền 6.478.000 đồng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự quận C theo Biên lai số 0019213 ngày 17/2/2023.
Ông Nguyễn Văn Q được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng thuê nhà số 548/2023/DS-PT
Số hiệu: | 548/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 17/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về