TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 04/2023/KDTM-PT NGÀY 09/01/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THI CÔNG
Ngày 9 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý số 204/2022/TLPT- KDTM ngày 09/12/2022, về việc “Tranh chấp hợp đồng thi công”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 641/2022/QĐXX-PTKT ngày19 /12/2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 661/2022/QĐ-HPT ngày 27/12/2022 giữa:
Nguyên đơn: Công ty G Người đại diện theo pháp luật: bà Dương Thị Mai L- Giám đốc .
Trụ sở: Số 51 T, phường N, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. ( Có mặt).
Bị đơn: Công ty TNHH E Người đại diện theo pháp luật: Bà Hà Thị Bích Th- Giám đốc Trụ sở: Tầng M D, phường D, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. ( Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện và các bản khai tại tòa Công ty G do người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ngày 30/8/2019, Công ty G và Công ty TNHH E đã ký Hợp đồng kinh tế số 3008/2019/HDDTCTC4517/NVN-G với nội dung: Công ty cổ phần kiến trúc và nội thấy G Việt Nam đồng ý để Công ty TNHH E cung cấp và thi công hoàn thiện sản phẩm màng bọc Vinyl cho vách gỗ và thanh nhôm ốp tường tại công trình dự án AQUABAY-ECOPARK ( Tháp A2) tổng giá trị hợp đồng là 153.724.395 đồng. Yêu cầu về sản phẩm: mẫu mã chủng loại là màng Vinyl RW4095 của hãng Sangetshu Nhật Bản.
Công ty TNHH E đã thi công công trình tháp A2, nhưng chất lượng không đảm bảo như: bị lồi lõm, các khe cạnh bị hở dù chỉ quan sát bằng mắt thường. Do chất lượng công việc chưa hoàn thiện vì vậy Công ty G chưa thể ký nghiệm thu công trình. Công ty TNHH E cũng chưa bàn giao hóa đơn giá trị gia tăng theo quy định tại khoản 3.4 Điều 3 của Hợp đồng. Tuy Công ty TNHH E vi phạm Hợp đồng số 3008/2019/HDTCTC4157/NVN-G nhưng Công ty G không tranh chấp và không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này. Vì vậy Công ty TNHH E không có quyền phản tố, đề nghị Tòa án bác bỏ yêu cầu phản tố của Công ty TNHH E.
Ngày 10/9/2019 hai bên ký tiếp Hợp đồng kinh tế số 1009/2010/HĐTC4517/NVN-G với nội dung Công ty cổ phần kiến trúc và nội thất Gpndola Việt Nam đồng ý để Công ty TNHH E cung cấp và thi công hoàn thiện sản phẩm màng bọc Vinyl cho vách gỗ và thanh nhôm ốp tường, ốp trần tại công trình dự án AQUABAY –ECOPARK ( Tháp B2), tổng giá trị hợp đồng là 371.383.075 đồng, mẫu mã chủng loại: màng nhập Vinyl TC4157 của hãng Sangetshu Nhật Bản. Thực hiện hợp đồng Công ty cổ phần kiến trúc và nội thấy G đã tạm ứng 251.549.321 đồng cho Công ty TNHH E. Ngày 22/10/2019, Công ty TNHH E giao vật tư Reatec lên công trình, mã sản phẩm TC4157, hãng Sangetsu Nhật Bản với tổng khối lượng 180m dài ( 3 cuộn nguyên và 1 cuộn dở). Khối lượng công việc của Hợp đồng này chưa được hoàn thành. Về mặt bằng Công ty TNHH E cho rằng Công ty G chưa bàn giao mặt bằng nên không thể thực hiện công việc. Đối với nội dung này Công ty G đã có văn bản phúc đấp đề nghị Công ty TNHH E chỉ rõ các lỗi mặt bằng và đến kiểm tra để chỉ ra lỗi cụ thể cho Công ty khắc phục, tuy nhiên, Công ty G khi thấy số lượng không đúng như biên bản bàn giao, nên đã đề nghị Công ty TNHH E đến để cùng kiểm đếm lại, nhưng Công ty TNHH E không đến và đã đồng ý để Công ty G và chủ đầu tư kiểm kê lại. Khi kiểm tra thực tế khối lượng vật tư chỉ có 115m dài Công ty TNHH E không thực hiện theo đề nghị. Trong thời gian này Công ty G đã có văn bản cam kết mặt bằng đủ điều kiện và yêu cầu Công ty TNHH E tiếp tục thực hiện thi công, nhưng Công ty TNHH E không hợp tác đồng thời tuyên bố chấm dứt hợp đồng vô thời hạn.
Tính đến thời điểm ngày 05/11/2019 Công ty G đã nhiều lần gửi văn bản yêu cầu Công ty TNHH E cung cấp sản phẩm, đảm bảo chất lượng, tiến độ thi công đúng theo Hợp đồng số 1009/2010/HDTC4517/NVN-G, nhưng Công ty TNHH E không hợp tác.
Ngày 28/10/2019, Công ty G đã ký Hợp đồng thi công với ông Nguyễn Xuân Đông để hoàn thành nốt phần công việc mà Công ty TNHH E chưa thực hiện.
Ngày 05/11/2019, Công ty G đã gửi email lần thứ 4 yêu cầu khẩn cấp cung cấp sản phẩn đúng chất lượng thi công, đúng chất lượng theo hợp đồng số 1009/2010/HDTC4517/NVN-G.
Ngày 06/11/2019, Công ty G gửi thông báo qua email về việc Công ty TNHH E đã vi phạm Hợp đồng và gửi qua chuyển phát vào ngày 08/11/2019.
Nay Công ty G đề nghị Công ty TNHH E thanh toán trả cho Công ty tổng số tiền là 206.042.640 đồng, trong đó: 100.172.730 đồng là tiền Công ty đã tạm ứng cho Công ty TNHH E, nhưng Công ty TNHH E chưa thực hiện công việc; 50.000.000 đồng tiền Công ty thuê bên thứ 3 để thi công cho kịp tiến độ công việc, đảm bảo thời gian bàn giao cho chủ đầu tư; Lãi chậm trả tạm tính từ ngày 28/10/2019 đến ngày 29/4/2021 là: 15.025.910 đồng ; Chi phí trả lương nhân viên làm việc với công ty TNHH Ecotribe Việt Nạm và văn phòng luật sư đi lại 18 tháng tính đến ngày 15/4/2021 là 35.000.000 đồng.
* Bị đơn Công ty TNHH E do người đại diện theo ủy quyền trình bày: Công ty TNHH E xác nhận Công ty có ký kết hai hợp đồng số 3008 và 1009 với Công ty cổ phần thiết kế và kiến trúc G Việt Nam; Về nội dung của hai hợp đồng đúng như Công ty G đã trình bày. Quá trình thực hiện hợp đồng 3008, khi tiếp nhận mặt bằng thi công thì hai bên không có biên bản bàn giao mặt bằng, không có tài liệu kỹ thuật, ngoài ra trong hợp đồng cũng không có quy định về điều kiện bàn giao, mức độ hoàn thành công việc. Trong quá trình thi công do phần bên trong của Công ty G không đạt, cán bộ giám sát của chủ đầu tư yêu cầu làm lại, Công ty chúng tôi đã phải khắc phục hậu quả do Công ty cổ phần thiết lế và kiến trúc G Việt Nam dùng vật tư cốt bên trong chất lượng kém.
Phía Công ty G mới chỉ tạm ứng lần 1 và lần 2 theo quy định tại khoản 3.3 Điều 3 của hợp đồng. Sau khi hoàn thành hợp đồng này công ty đã nhiều lần yêu cầu Công ty cổ phần kiến trúc và thiết kế G Việt Nam nghiệm thu và thanh toán nốt giá trị hợp đồng nhưng Công ty cổ phần kiến trúc và thiết kế G Việt Nam không có văn bản trả lời. Tính đến nay Công ty cổ phần kiến trúc và thiết kế G Việt Nam còn phải thanh toán số tiền còn lại theo hợp đồng số 3008 là 59.952.924 đồng.
Quá trình thực hiện hợp đồng số 1009: Công ty cổ phần kiến trúc và nội thất G Việt Nam vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo quy định tại Điều 3 của hợp đồng, số tiền mà Công ty cổ phần kiến trúc và nội thất G Việt Nam còn phải thanh toán trả cho Công ty TNHH E tính đến ngày 15/10/2019 là : 84.126.821 đồng.
Ngày 23/9/2019, Công ty TNHH E đến hiện trường kiểm tra trước khi bàn giao đã phát hiện những lỗi của phía Công ty cổ phần kiến trúc và nội thất G Việt Nam và yêu cầu khắc phục. Nhưng đến ngày 19/10/2019 Công ty cổ phần kiến trúc và nội thất G Việt Nam vẫn chưa khắc phục, nên Công ty cổ phần E đã từ chối thi công. Tuy nhiên ngày 23/10/2019 vì đặt yếu tố khách hàng là trên hết, nên Công ty TNHH E đã tiến hành thi công trong điều kiện không đạt yêu cầu, có nhiều các bên thi công trong cùng một khu vực. Cùng ngày sau khi thi công xong khu vực được bàn giao, Công ty TNHH E đã yêu cầu Công ty cổ phần kiến trúc và nội thất G Việt Nam xác nhận nghiệm thu chất lượng nhưng Công ty cổ phần kiến trúc và nội thất G Việt Nam chỉ xác nhận nghiệm thu số lượng, nhưng không nghiệm thu chất lượng mà không đưa ra lý do vì sao không nghiệm thu chất lượng.
Ngày 25/10/2019, Công ty TNHH E đã có văn bản đề nghị tạm dừng Hợp đồng để đàm phán lại với lý do được quy định khoản c Điều 4 của Hợp đồng và có yêu cầu thanh toán số tiền 84.126.821 đồng, nhưng phía nguyên đơn không đồng ý và lờ đi việc thanh toán.
Đối với Biên bản ngày 25/10/2019 mà Công ty G đưa ra thì tại biên bản đó chỉ có sự tham gia của nhân viên Ban quản lý dự án Aquabay và Công ty G, không có sự tham gia của Công ty TNHH Eo tribe Việt Nam, nên Công ty TNHH E không chấp nhận.
Công ty TNHH E khẳng định đã bàn giao đầy đủ, đúng chủng loại vật tư cho Công ty cổ phần kiến trúc và thiết kế G Việt Nam theo Hợp đồng 1009/2019/HĐTCTC4157/NVN-G và không chịu bất kỳ trách nhiệm nào do thất thoát, hao hụt vật tư sau khi bàn giao.
Trong suốt quá trình thực hiện Hợp đồng 1009/2019/HĐTCTC4157/NVN- G, Công ty G liên tục vi phạm hợp đồng (bao gồm cả các vi phạm cơ bản) như: vi phạm điều khoản thanh toán, cụ thể, không thanh toán đủ số tiền các lần 1 và lần 2 theo Điều 3.3 Hợp đồng 1009; giao mặt bằng không đủ điều kiện thi công và xâm phạm mặt bằng để làm công việc khác khiến cho việc thi công không thể thực hiện được, phát sinh chi phí nhân công và đi lại; không chuẩn bị kho lưu hàng hóa vật tư dẫn đến phát sinh 03 lần chi phí vận chuyển; không nghiệm thu khi Công ty TNHH E hoàn thành công việc, cố tình thoái thác nghiệm thu tại hiện trường. Các vi phạm của Công ty G bị coi là các vi phạm hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 308 Luật Thương Mại 2006 (Luật Thương mại 2005), EcoTribe hoàn toàn có quyền tạm ngừng thi công sản phẩm tại dự án B2 Aquabay – Ecopark cho đến khi Công ty G khắc phục các vi phạm đó.
Như đã đề cập ở trên, Công ty TNHH E đã bàn giao đầy đủ, đúng chủng loại vật tư cho Công ty G theo Hợp đồng 1009 cũng như đã thi công được một phần công việc (có biên bản bàn giao và xác nhận phần đã thi công theo đính kèm được in từ bản chụp). Công ty G cũng đã xác nhận số lượng hàng hóa là 180m dài màng bọc Vinyl TC 4157 của hãng Sangetsu Nhật Bản được giao bởi EcoTribe và 13 thanh nhôm đã thi công theo Công văn ngày 26/10/2019 và Bản tự khai ngày 29/4/2021 ký bởi bà Dương Mai L. Nay, Công ty TNHH E yêu cầu Công ty G thanh toán khoản tiền còn lại như sau:
STT | Diễn giải | Phải thanh toán | Đã thanh toán | Còn phải thanh toán | Ghi chú |
1 | Giá trị hợp đồng | 371.831.075đ | |||
2 | Giá trị tạm ứng lần 1 và lần 2 | 260.281.753đ | 251.549.322đ | 8.732.431 | G tạm ứng thiếu … đồng, vi phạm Điều 3.3 Hợp đồng 1009 |
3 | Giá trị còn lại của hợp đồng | 111.549.322 | 0 | 111.549.322 | |
4 | Giảm trừ chi phí không thi công theo thực tế | 10.000.000 | 0 | 10.000.000 | Công thợ: 20 công x 500.000đ |
5 | Giá trị gốc hợp đồng còn phải thanh toán | 110,281,753 | |||
6 | Chi phí phát sinh cho 3 lần không có mặt bằng thi công | 7,200,000 | 0 | 7,200,000 | Chi phí vận chuyển và phát sinh nhân công do 03 lần yêu cầu thi công nhưng không có mặt bằng |
7 Tổng giá trị phải thanh toán cho Hợp đồng 1009 | 117,481,753 |
Vì vậy, Công ty TNHH E đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty G; Công ty TNHH E có đơn yêu cầu phản tố, đề nghị Tòa án buộc Công ty G phải thanh toán số tiền còn thiếu của 02 hợp đồng là 150.919.745 đồng, cụ thể như sau:
1. Buộc Công ty G trả cho Công ty THNHH E khoản tiền gốc còn lại chưa thanh toán là 59.594.574 đồng, tiền lãi chậm trả 4.126.720 đồng và khoản phạt 5% trên khoản tiền gốc chậm trả 2.979.728 đồng phát sinh theo Hợp đồng số 3008/2019/HĐTCTC4157/NVN-G (“Hợp đồng 3008”). Vì ngày 10/10/2019, Công ty TNHH E đã hoàn thành toàn bộ việc cung cấp và thi công hoàn thiện sản phẩm màng bọc Vinyl mã RW4095 tại công trình AquaBay – Ecopark. Toàn bộ sản phẩm hoàn thiện màng bọc này đã được Công ty G bàn giao cho chủ đầu tư là Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển đô thị Việt Hưng. Kể từ thời điểm hoàn thành việc thi công sản phẩm đến nay đã quá thời hạn 12 tháng bảo hành, Công ty TNHH E không nhận được bất kỳ yêu cầu bảo hành nào từ Công ty G. Như vậy, cần phải hiểu rằng sản phẩm đã đạt yêu cầu và Công ty G phải có trách nhiệm trả toàn bộ khoản tiền gốc còn lại chưa thanh toán cho Công ty TNHH E theo Hợp đồng 3008/2019/HĐTCTC4157/NVN-G.
Cụ thể, khoản tiền gốc còn lại chưa thanh toán như sau: (i) Tổng giá trị thực tế được nghiệm thu tại hiện trường:
- Giá trị đã thực hiện chưa bao gồm thuế GTGT: 1.585.000 đồng x 95,9m2 = 152.001.500 đồng;
- Thuế GTGT 10%: 15.200.150 đồng;
Tổng cộng giá trị thực tế bao gồm 10% thuế GTGT là: 167.201.650 đồng; (vui lòng xem chi tiết tại Biên bản thanh lý ngày 10/10/2019 và Bảng nghiệm thu thi công A2 đã được gửi cho G) (ii) Đã thanh toán: 107.607.076 đồng;
(iii) Khoản tiền gốc còn lại chưa thanh toán: 59.594.574 đồng.
Căn cứ quy định tại Điều 306 Luật Thương Mại 2006 (Luật Thương mại 2005) và Điều 5.1 của Hợp đồng 3008/ 2019/HĐTCTC4157/NVN-G. Công ty cổ phần E được quyền yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán. Ngày 23/10/2019 là thời điểm Công ty TNHH E yêu cầu Công ty cổ phần kiến trúc và nội thất G Việt Nam nghiệm thu sản phẩm và thanh toán số tiền gốc còn lại theo Điều 3.3 của Hợp đồng 3008/2019/HĐTCTC4157/NVN- G. Tuy nhiên, Công ty G đã không thực hiện trách nhiệm nghiệm thu sản phẩm và thanh toán số tiền còn thiếu là 59.594.574 đồng cho Công ty TNHH E. Thực tế sản phẩm thi công tại sảnh A2 đã được Công ty G bàn giao cho Chủ đầu tư và đưa vào sử dụng. Do vậy, sản phẩm cần được xem là đã được nghiệm thu và Công ty G bị xem là đã chậm trễ thanh toán tiền gốc còn thiếu kể từ ngày 24/10/2019. Tuy nhiên, cho tiện tính toán tiền lãi cho toàn bộ khoản tiền gốc chậm trả, Công ty TNHH E tính tiền lãi trên số tiền gốc chậm trả kể từ ngày hết bảo hành là ngày 10/10/2020 (12 tháng kể từ ngày hoàn thiện việc thi công 10/10/2019). Cụ thể Số tiền lãi do chậm thanh toán tạm tính đến ngày 12/9/2021 là 59.594.574 đồng x lãi suất năm cho vay của Ngân hàng ngoại thương (7,5%)/365 ngày x số ngày chậm trả (337 ngày) = 4.126.720 đồng.
Ngoài ra, Công ty G phải chịu một khoản phạt vi phạm là 5% trên khoản tiền gốc chậm trả là 59.594.574 đồng x 5% = 2.979.728 đồng.
Tổng cộng tiền gốc, tiền lãi tạm tính đến ngày 12/9/2021 và tiền phạt là: tiền gốc 59.594.574 đồng + tiền lãi 4.126.720 đồng + tiền phạt 2.979.728 đồng = 66.701.022 đồng.
2. Buộc Công ty G trả cho Công ty TNHH E khoản tiền gốc còn lại chưa thanh toán là 110.281.753 đồng theo Hợp đồng số 1009/2019/HĐTCTC4157/NVN-G ngày 10/9/2019 (“Hợp đồng 1009”) và chi phí phát sinh 7.200.000 đồng.
Như vậy, tổng cộng Công ty G phải trả cho Công ty TNHH E theo Hợp đồng 3008/ 2019/HĐTCTC4157/NVN-G và Hợp đồng 1009/2019/HĐTCTC4157/NVN-G là: 66.701.022 đồng + 117.481.753 đồng = 184.182.775 đồng.
Yêu cầu Công ty G phải thanh toán tất cả các chi phí pháp lý liên quan đến vụ kiện này theo quy định.
Tại bản án sơ thẩm số 30/2022/KDTM-ST ngày 31/8/2022 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy đã xử:
1/ Xác định phần giá trị công việc Công ty TNHH E đã thực hiện được theo Hợp đồng số 1009/2019/HĐTC TC4157/NVN-G ngày 10/9/2019 với Công ty G là:
- Phần giá trị đã thi công xong 18 thanh là 18.638.015 đồng.
- Phần vật tư còn trong kho là: 134,4556m2. Giá trị vật tư sau khi trừ phí nhân công là 200.981.109 đồng.
Tổng cộng là: 219.616.124 đồng.
Đối trừ phần tạm ứng đã nhận, Công ty TNHH E có nghĩa vụ phải trả lại cho Công ty cổ phần kiến trúc và nội thất G Việt Nam là 31.933.197 đồng.
2/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty G, buộc Công ty TNHH E thanh toán cho Công ty cổ phần kiến trúc và nội thất G Việt Nam theo Hợp đồng số 1009/2019/HĐTC TC4157/NVN-G ngày 10/9/2019 các khoản tiền sau:
- Tiền tạm ứng thừa là 31.933.197 đồng.
- Tiền bồi thường do phải thuê đơn vị khác tiếp tục thi công là 20.000.000 đồng.
Bác yêu cầu của Công ty G yêu cầu Công ty TNHH E phải chịu lãi chậm trả và phải cung cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa, Giấy chứng nhận chất lượng hàng hóa.
3/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của Công ty TNHH E, buộc Công ty G thanh toán cho Công ty TNHH E theo Hợp đồng 3008/2019/HĐTCTC 4157/NVN-G ngày 30/8/2019 các khoản tiền sau:
- Giá trị chưa thanh toán: 59.594.574 đồng.
- Lãi chậm trả từ ngày 23/10/2019 đến ngày xét xử, theo mức lãi suất 7,5%/năm: 8.424.877 đồng.
- Khoản phạt vi phạm 5% theo quy định của Hợp đồng: 2.979.728 đồng.
- Buộc Công ty G phải thanh toán cho Công ty TNHH E khoản tiền vận chuyển hàng của Hợp đồng 1009/2019/HĐTC TC4157/NVN-G ngày 10/9/2019 là 7.200.000 đồng.
4/ Đối trừ nghĩa vụ: Công ty G phải thanh toán cho Công ty TNHH E là 26.268.353 đồng.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (Đối với trường hợp cơ quan thi hành án có thẩm quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (Đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ Luật dân sự năm 2015.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự. Không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm ngày 14/9/2022 Công ty TNHH E có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, không đồng ý với quyết định của bản án sơ về việc buộc Công ty TNHH E phải bồi thường chi phí 20.000.000 đồng tiền thuê bên thứ ba thi công nốt phần còn lại và không đồng ý với việc xác định số lượng và giá trị vật tư mà Công ty TNHH E đã bàn giao cho Công ty G như bản án sơ thẩm đã xác định.
Không đồng ý với bản án sơ thẩm ngày 14/9/2022 Công ty G có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm vì cho rằng bản án sơ thẩm tuyên không khách quan, chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm, hướng giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và HĐXX đã tiến hành đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Các đương sự trong vụ án chấp hành quyền, nghĩa vụ theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Sau khi tóm tắt nội dung vụ án và phân tích nội dung vụ án, xét thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty G. Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự sửa án sơ thẩm, cụ thể: Công ty G không phải bồi thường cho Công ty TNHH E vì không có lỗi đối với việc tạm dừng thi công và về số lượng vật tư đã bàn giao; Về án phí các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ kết quả hỏi và tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1].Về tố tụng: Đơn kháng cáo của Công ty G và Công ty TNHH E làm trong thời hạn luật định. Người kháng cáo đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm, nên việc kháng cáo là hợp lệ. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2].Về nội dung: Xét yêu cầu kháng cáo của Công ty G và Công ty TNHH E. Hội đồng xét xử xét thấy Hợp đồng kinh tế số 3008/2019/HĐTCC 4157/NVN-G ngày 30/8/2019 và Hợp đồng số 1009/2019/HĐTC TC4157/NVN-G ngày 10/9/2019 giữa Công ty G và Công ty TNHH E được các bên ký kết trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, về hình thức và nội dung phù hợp với quy định của pháp luật, nên phát sinh hiệu lực đối với các bên.
Sau khi ký Hợp đồng hai bên đã thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, quá trình thực hiện Hợp đồng hai bên đều có những vi phạm cụ thể như sau:
Theo thỏa thuận tại khoản 3.3 Điều 3 của Hợp đồng số 1009/2019/HĐTC TC4157/NVN-G ngày 10/9/2019 quy định: “ Tiến độ và thời gian thanh toán: Bên A thanh toán thành 04 đợt như sau:
+ Lần 1 : Bên A tạm ứng 40% giá trị hợp đồng sau khi hai bên kí kết hợp đồng tương ứng số tiền là 148.732.430 đồng .
+ Lần 2: Sau khi hàng hóa được bên B giao đến địa điểm thi công của bên A, bên A có trách nhiệm thanh toán tiếp 30% giá trị Hợp đồng, tương ứng với số tiền là 111.549.322 đồng.
+ Lần 3: Sau khi hoàn thành việc thi công, bên A thanh toán tiếp 25% giá trị hợp đồng theo số liệu quyết toán được phê duyệt. Thời gian thanh toán : trong 5 ngày làm việc kể từ ngày hoàn thiện sản phẩm và nhận đủ hồ sơ quyết toán của bên B.
+ Lần 4: Sau khi nhận được văn bản bảo lãnh thực hiện bảo hành do ngân hàng của bên B phát hành, bên A có trách nhiệm thanh toán nốt số tiền bảo hành tương đương 5% giá trị quyết toán…….”.
Như vậy, về điều khoản thanh toán các bên đã xác thống nhất về nghĩa vụ trả tiền của Công ty G và số tiền tạm ứng, thanh toán từng giai đoạn. Các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện quá trình thực hiện, Công ty G đã vi phạm từ việc thanh toán số tiền và thời gian chuyển tiền. Đại diện Công ty G cho rằng đây chỉ là tiền tạm ứng, nên không cần thiết phải chính xác. Xét thấy, việc vi phạm thanh toán tiền và thời gian thanh toán tiền của Công ty G là không đúng với thỏa thuận của các bên trong hợp đồng.
Ngoài ra, đại diện Công ty G còn cho rằng Công ty G đã bàn giao đủ mặt bằng và việc để nhà thầu khác xâm lấn là lỗi của Công ty TNHH E. Xét thấy, theo biên bản bàn giao mặt bằng ngày 22 và 23/10/2019 thể hiện, Công ty G chỉ bàn giao được 3 khu vực trong tổng số 6 khu vực cần thi công tại sảnh B2 Aquabay. Theo bản ảnh hiện trường do Công ty TNHH E xuất trình, xác định việc Công ty TNHH E nêu mặt bằng đã bàn giao bị xâm lấn bởi các nhà thầu khác là có thật. Nhân viên của Công ty TNHH E không có quyền ngăn cản các nhà thầu khác thi công mà trách nhiệm điều phối, trả lại mặt bằng thi công thuộc về nhân viên giám sát của Công ty G tại hiện trường.
Về nghĩa vụ của Công ty TNHH E: Quá trình giải quyết và tại phiên tòa Công ty TNHH E khẳng định đã tập kết đủ hàng theo Biên bản bàn giao hàng ngày 22/10/2019, xét thấy, nội dung biên bản bàn giao không xác định 3 cuộn nguyên có kích thước bao nhiêu mà chỉ xác định tổng hàng lưu kho là 180m dài. Tại phiên tòa đại diện của Công ty TNHH E khai 3 cuộn nguyên là loại 50m, nhưng theo bản ảnh kiểm tra hiện trạng ngày 25/10/2019 thể hiện hình ảnh thùng hàng trong kho là 3 cuộn đều có mã hàng TC4157, gồm các kích thước ghi trên nhãn mác là 01 cuộn 50m, 01 cuộn 37m, 01 cuộn 28m (tổng là 115m). Công ty G mua hàng và nghiệm thu theo m2 sản phẩm đã thi công. Việc Công ty TNHH E mang hàng đến lưu kho là để công nhân của mình thi công, trường hợp có thiếu hàng thì Công ty TNHH E phải có trách nhiệm nhập cho đủ để thi công và bàn giao đúng diện tích thành phẩm theo quy định của Hợp đồng. Như vậy không có cơ sở xác định số hàng Công ty TNHH E đã nhập kho của Công ty cổ phần kiến trúc và nội thất G ngày 22/10/2019 là 180m dài như Công ty TNHH E trình bầy. Mặt khác, khi phát sinh tranh chấp, ngày 25/10/2019, Công ty cổ phần kiến trúc và nội thất G Việt Nam đã mời đại diện của Công ty TNHH E đến cùng kiểm đếm hàng trong kho, nhưng đại diện Công ty TNHH E đã không đến chứng kiến. Căn cứ Biên bản ngày 25/10/2019, kiểm đếm giữa Công ty G và những người chứng kiến khác. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định lượng hàng còn trong kho sau khi nhân viên Công ty TNHH E rời khỏi công trường là 134,455,6m2 để xác định phần nghĩa vụ đã thực hiện của Công ty TNHH E khi giải quyết tranh chấp là có căn cứ.
*Đối với yêu cầu của Công ty G, buộc Công ty TNHH E cung cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (CO) và Giấy chứng nhận chất lượng hàng hóa (CQ):
Xét thấy, nội dung hợp đồng các bên chỉ ghi nhận mã hàng và nhà sản xuất; quy định về nghĩa vụ của nhà cung cấp khi sử dụng hàng hóa không đúng nguồn gốc, xuất xứ, quy cách, chủng loại… chứ không quy định về nghĩa vụ cung cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (CO) và Giấy chứng nhận chất lượng hàng hóa ( CQ ). Hơn nữa, sau khi Công ty TNHH E ngừng thi công, thì Công ty G đã thuê nhà thầu khác tiếp tục thi công bằng chính hàng hóa của Công ty TNHH E lưu trong kho, mà không có ý kiến thắc mắc gì, điều này thể hiện Công ty G đã chấp nhận chất lượng số hàng hóa này của Công ty TNHH E. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của Công ty G là có căn cứ.
*Đối với phần giá trị Công ty TNHH E đã thi công. Hội đồng xét xử xét thấy, hai bên đã xác nhận trước khi ngừng thực hiện hợp đồng, Công ty TNHH E đã thi công được 13 thanh. Tuy nhiên, Công ty TNHH E cho rằng ngoài ra Công ty còn thi công 05 thanh. Căn cứ nhật ký thi công và các bản ảnh thi công và căn cứ bảng tính gía trị thi công vật tư thực tế do bị đơn xuất trình, có cơ sở xác định ngoài 13 thanh nêu trên, thì Công ty TNHH E còn thi công được 5 thanh.
Tòa án cấp sơ thẩm xác định, phần công việc Công ty TNHH E đã thực hiện được theo Hợp đồng 1009/2019/HĐTCTC4157/NVN-G ngày 10/9/2019, gồm: Phần đã thi công xong theo bản kê của bị đơn, gồm: 5 thanh = 3,28m2 và 13 thanh = 7,41m2. Thành tiền: (3,28 m2 + 7,41m2) x 1.743.500 đồng/m2 = 18.638.015 đồng; Phần vật tư còn trong kho là : 134,455,6m2. Trừ 10% hao hụt theo như Bản dự trù vật tư kèm theo hợp đồng và quy đổi là 134.4556 m2 – 13,4455 m2 = 121,0101 m2. Thành tiền: 121,0101 m2 x 1.743.500 đồng/ m2 = 210.981.109 đồng là có căn cứ.
Xét thấy, giá thành phẩm thi công đã có cả phí nhân công, nay Công ty TNHH E chỉ giao hàng mà không thi công hoàn thiện, nên Công ty TNHH E tự nguyện khấu trừ 10.000.000 đồng phí nhân công vào giá hàng. Đây là sự tự nguyện của đương sự và phù hợp với quy định của pháp luật nên được ghi nhận. Như vậy, số hàng còn lại trong kho của Công ty G là 210.981.109 đồng – 10.000.000 đồng = 200.981.109 đồng.
Tổng cộng là: 18.638.015 đồng + 200.981.109 đồng = 219.616.124 đồng.
Đối trừ phần tạm ứng Công ty G đã thanh toán cho Công ty TNHH E, thì Công ty TNHH E còn phải thanh toán cho Công ty G theo Hợp đồng 1009/2019/HĐTCTC4517/NVN-G là: 251.549.321 đồng – 219.616.124 đồng = 31.933.197 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty TNHH E phải thanh toán trả cho Công ty G số tiền 31.933.197 đồng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
* Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại của các bên:
Xét thấy, Về yêu cầu bồi thường khoản chi phí xe vận chuyển hàng do Công ty TNHH E chở hàng sang công trình trong 3 ngày 17, 18, 19/10/2019, nhưng Công ty G không có kho lưu giữ hàng hóa là 7.200.000 đồng. Xét lý do phát sinh chi phí là có thật và phù hợp thực tế. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu đòi bồi thường của Công ty TNHH E về chi phí vận chuyển hàng là 7.200.000 đồng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
*Về yêu cầu tính lãi suất chậm trả mà công ty cổ phần kiến trúc và nội thất G Việt Nam cho rằng đã tạm ứng cho Công ty TNHH E 100.172.730 đồng, nhưng Công ty TNHH E chưa thực hiện công việc tính từ ngày 28/10/2019 đến ngày 29/4/2021. Hội đồng xét xử xét thấy, do các bên không thống nhất được giá trị Công ty TNHH E đã thực hiện để xác định phần Công ty G đã thanh toán là thừa hay thiếu, nên chưa có cơ sở để tính lãi chậm trả, nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu này của Công ty G.
* Về yêu cầu đòi bồi thường chi phí Công ty G phải thuê đơn vị khác thi công nốt phần việc còn lại: Xét thấy căn cứ các tài liệu do nguyên đơn xuất trình, có cơ sở xác định thiệt hại phát sinh là có thật. Nhưng từ phân tích về lỗi của mỗi bên dẫn đến việc ngừng thực hiện hợp đồng như đã nêu trên, xét lỗi chính thuộc về Công ty G, vì khi Công ty TNHH Eco Tribie Việt Nam thi công, thì Công ty G đã không bàn giao đủ mặt bằng thi công cho Công ty TNHH E. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ chấp nhận 1 phần yêu cầu bồi thường và buộc Công ty TNHH E phải chịu 2/5 khoản chi phí 50.000.000 đồng phát sinh khi Công ty G phải thuê đơn vị khác tiếp tục thi công phần còn lại của sảnh B2 là 20.000.000 đồng là có căn cứ.
Như vậy, tổng cộng Công ty TNHH E phải thanh toán cho Công ty cổ phần kiến trúc G Việt Nam theo Hợp đồng 1009/2019/HDTCTC4517/NVN-G là: 31.933.197 đồng - 7.200.000 đồng tiền bồi thường chi phí vận chuyển + 20.000.000 đồng tiền bồi thường chi phí phát sinh do thuê bên thứ 3 = 44.733.197 đồng.
*Xét yêu cầu phản tố của bị đơn đối với Hợp đồng 3008/2019/HĐTCTC 4157/NVN-G ngày 30/8/2019:
Hội đồng xét xử xét thấy, ngày 10/10/2019, Công ty TNHH E đã hoàn thành việc cung cấp và thi công hoàn thiện sản phẩm màng bọc Vinyl RW tại công trình Sảnh A2 Aquabay – Ecopark, công trình đã được bàn giao cho Chủ đầu tư tiếp quản sử dụng đến nay gần 3 năm, nhưng Công ty G lại cho rằng phần thi công này chưa được nghiệm thu, nên Công ty cổ phần kiến trúc và nội thất G Việt Nam không phải thanh toán số tiền thi công của hợp đồng số 3008/2019/HĐTCTC/4157/NVN-G cho Công ty TNHH E. Xét thấy việc Công ty G nêu ra lý do này là không có cơ sở. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của của Công ty TNHH E, buộc Công ty G phải thanh toán trả cho Công ty TNHH E các khoản theo Hợp đồng 3008/2019/HĐTCTC/4157/NVN-G Tổng cộng là 70.999.179 đồng. Trong đó bao gồm: Giá trị chưa thanh toán: 59.594.574 đồng; Lãi chậm trả từ ngày 23/10/2019 đến ngày xét xử, theo mức lãi suất 7,5%/năm: 8.424.877 đồng; Khoản phạt vi phạm 5% theo quy định của Hợp đồng: 2.979.728 đồng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
Mặt khác, Công ty G còn cho rằng yêu cầu này của Công ty TNHH E không phải là yêu cầu phản tố, xét thấy theo quy định của điểm a khoản Điều 200 Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là yêu cầu phản tố.
Vì vậy, sau khi đối trừ nghĩa vụ thanh toán của 02 hợp đồng, Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty G phải thanh toán trả cho Công ty TNHH E 26.268.353 đồng là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật.
Từ những phân tích trên xét thấy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty G và Công ty TNHH E.
Quan điểm của Viện kiểm sát phù hợp một phần với các tài liệu có trong hồ sơ, nên được chấp nhận một phần.
[4] Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận, nên các đương sự phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 1 Điều 30; khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Áp dụng Điều 24, Điều 30, Điều 50, Điều 306, Điều 310 và Điều 311 Luật thương mại;
Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 30/2022/KDTM-ST ngày 31/8/2022 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Về án phí:
+ Án phí phúc thẩm: Công ty cổ phần kiến trúc và nội thất G và Công ty TNHH E mỗi Công ty phải chịu 2.000.000 đồng án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm, được trừ vào 2.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí các Công ty đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0018729 ngày 20/9/2022 và số 0018743 ngày 30/9/2022 của Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng thi công số 04/2023/KDTM-PT
Số hiệu: | 04/2023/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 09/01/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về