Bản án về tranh chấp hợp đồng tặng cho số 467/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 467/2023/DS-PT NGÀY 19/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TẶNG CHO

Ngày 19 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 107/2023/TLPT-DS ngày 16 tháng 3 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng tặng cho”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 04/2023/DS-ST, ngày 09/01/2023 của Tòa án nhân dân quận Đ bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 289/2023/QĐ-PT ngày 23 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị G, sinh ngày 10/12/1947 (có mặt tại phiên tòa).

HKTT : Số 97, P, phường Phúc La, quận Đ, thành phố H;

Nơi ở hiện nay: Phòng 18, tầng 11, sảnh B, tòa nhà E, ngõ 300 đường Nguyễn Xiển, xã Tân Triều, huyện T, thành phố H.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1980; địa chỉ: Phòng 1620, tòa nhà VP5, phường Hoàng Liệt, quận H, H (theo Giấy ủy quyền lập ngày 16/3/2023, công chứng tại Văn phòng công chứng Nguyễn T; ông T có mặt tại phiên tòa).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà G là ông Đặng Văn S và bà Đặng Thị Vân Th, đều là Luật sư Văn phòng Luật sư Đặng S và cộng sự thuộc Đoàn Luật sư thành phố H (ông S, bà Th đều có mặt tại phiên tòa).

Bị đơn: Chị Vũ Thị Hà P, sinh ngày 19/12/1970 (vắng mặt tại phiên tòa). HKTT : Số 97, P, phường Phúc La, quận Đ, thành phố H;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Vũ C1 B, sinh ngày 30/01/1972 (có mặt tại phiên tòa).

HKTT : Số 97, P, phường Phúc La, quận Đ, thành phố H;

Nơi ở hiện nay: Phòng 18, tầng 11, sảnh B, tòa nhà ECDDREAM, ngõ 300 đường Nguyễn Xiển, xã Tân Triều, huyện T, thành phố H.

2. Anh Vũ Xuân G1, sinh ngày 16/12/1975 (có mặt tại phiên tòa).

HKTT : C5, Tổ 26 Cụm 5, phường Hạ Đình, quận X, thành phố H; Nơi ở hiện nay: Phòng 18, tầng 11, sảnh B, tòa nhà ECDDREAM, ngõ 300 đường Nguyễn Xiển, xã Tân Triều, huyện T, thành phố H.

Người đại diện theo ủy quyền của anh B và anh G1 là ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1980; địa chỉ: P 1620, tòa nhà VP5, phường Hoàng Liệt, quận H, H (theo Giấy ủy quyền lập ngày 16/3/2023, công chứng tại Văn phòng công chứng Nguyễn T. Ông T có mặt tại phiên tòa).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh B, anh G1 là ông Đặng Văn S và bà Đặng Thị Vân Th, đều là Luật sư Văn phòng Luật sư Đặng S và cộng sự thuộc Đoàn Luật sư thành phố H (ông S, bà Th có mặt tại phiên tòa).

3. Văn phòng C1 chứng Bùi Hữu D (Tên gọi cũ là Văn phòng C1 chứng T).

Địa chỉ: L1, khu Trung tâm hành chính, phường Hà Cầu, quận Đ, H;

Người đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Hữu D (Có Đơn xin xét xử vắng mặt).

4. UBND quận Đ, thành phố H.

Địa chỉ: Khu Trung tâm hành chính, phường Hà Cầu, quận Đ, H.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Bá Q - Phó Trưởng phòng Tài nguyên - Môi trường UBND quận Đ (Theo Giấy ủy quyền số 06/UBND-GUQ ngày 14/4/2023 của Chủ tịch UBND quận Đ).

5. Ông Đỗ Văn B; Địa chỉ: Số 97 P, phường Phúc La, Quận Đ, H (vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - bà Phạm Thị G và người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Vợ chồng bà là Phạm Thị G và ông Vũ Xuân C1 (chết năm 2005) có 3 người con là Vũ Thị Hà P, Vũ C1 B và Vũ Xuân G1.

Năm 1982, vợ chồng bà mua 01 thửa đất, diện tích 89,9m2, trên có 01 nhà cấp 4 tại số 02 Nguyễn Chánh, Phúc La, Đ (sau này thuộc 63, đường P và hiện tại là số 97 P, tổ dân phố số 1, phường Phúc La, quận Đ, thành phố H), cả gia đình sinh sống tại đây đến năm 1994-1995 gia đình bà mua 01 nhà cấp 4, diện tích 30m2 tại Khu tập thể Sông Đà, phường X Nam, quận X, H và cả gia đình chuyển ra đó sinh sống; nhà đất ở Đ ông bà cho con gái Vũ Thị Hà P ở và dạy học.

Khoảng năm 2008- 2010, sau khi chị P ly hôn với chồng, do thương con gái vất vả nên bà đã bán nhà đất X, cho tiền để chị P mua chung cư, con trai cả Vũ C1 B đi lấy vợ và phải thuê nhà để ở, con trai Vũ Xuân G1 đi ở rể tại nhà vợ và bà đến ở nhờ vợ chồng con trai út.

Còn nhà đất ở Đ, sau khi ông C1 mất không để lại di chúc, năm 2010 gia đình bà gồm bà và ba con họp gia đình thống nhất bà được toàn quyền quản lý, sử dụng toàn bộ thửa đất. Ngày 05/11/2010, bà đã được UBND quận Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 167803 đứng tên Phạm Thị G đối với thửa đất tại số 63 P, Phúc La, Đ, H.

Cuối năm 2010, do được cán bộ địa chính phường Phúc La lúc đó là chị Phạm Thị Ngọc H thông báo có quy hoạch thửa đất, nên bà đã nghe theo và làm thủ tục tặng cho con gái là chị Vũ Thị Hà P ½ thửa đất, mục đích là để chị P đứng tên hộ và sau này thu hồi sẽ được 02 tiêu chuẩn tái định cư.

Mọi thủ tục tặng cho được thực hiện tại Văn phòng công chứng T (nay là Văn phòng công chứng Bùi Hữu D); Ngày 18/01/2011, chị P đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 688628 đối với 45m2.

Tuy nhiên, sau này bà thấy chị P không tốt, sống thiếu trách nhiệm, bất hiếu, bà đã yêu cầu chị P làm lại thủ tục sang tên cho bà song chị P không đồng ý. Do vậy, bà khởi kiện tại Tòa án yêu cầu: Chia thừa kế tài sản là ½ nhà đất tại Nguyễn Chánh, Đ; Tuyên bố Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 4763/2010/HĐGD do Văn phòng công chứng T lập ngày 31/12/2010 (nay là Văn phòng công chứng Bùi Hữu D) vô hiệu; Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BĐ 688628 do UBND quận Đ cấp cho Vũ Thị Hà P ngày 18/01/2011, vào Sổ cấp GCNQSDĐ số CH- 00343 đối với thửa đất số 241A, tờ bản đồ số 9, diện tích 45,0m2, mục đích sử dụng là đất ở tại đô thị (ODT), thời hạn sử dụng lâu dài, địa chỉ thửa đất tại số 63, đường P, Tổ dân phố số 1, phường Phúc La, quận Đ, thành phố H.

Với lý do đây là hợp đồng tặng cho giả cách chỉ để được đền bù đất tái định cư và lời chứng của Văn phòng công chứng tại Hợp đồng tặng cho là không đúng. Từ thời điểm tặng cho P đến nay bà vẫn giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà trực tiếp cho ông Đỗ Văn B thuê nhà và thu tiền thuê nhà từ năm 2008 đến nay. Bà xác định nhà đất của bà, bà cho thuê lấy tiền chi tiêu thuốc men, không tranh chấp về hợp đồng thuê nhà.

Ngày 20.12.2022, bà Phạm Thị G có đơn rút yêu cầu chia thừa kế; bà yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Vũ Thị Hà P. Bà G không đống ý với yêu cầu phản tố của chị Vũ Thị Hà P.

Bị đơn - chị Vũ Thị Hà P trình bày:

Bố mẹ chị là ông Vũ Xuân C1 (đã mất) và bà Phạm Thị G có 3 người con là: chị P, anh Vũ C1 B và anh Vũ Xuân G1.

Bố mẹ chị có 01 thửa đất số hiệu 241, tờ bản đồ số 9 diện tích khoảng 89,9m2 tại số 02 Nguyễn Chánh (sau đó là 63 P, nay là 97 P, Phúc La, Đ).

Khoảng 10 năm sau, gia đình chị chuyển ra ở X Nam; nhà đất ở Nguyễn Chánh bố mẹ giao cho chị ở và dạy học tại đây.

Sau khi bố chị mất, gia đình gồm 4 mẹ con chị họp bàn mẹ chị được toàn quyền quản lý, sử dụng, sau đó mẹ chị đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Phạm Thị G.

Do em trai chị là Vũ C1 B chơi bời lêu lổng, phá tán tài sản gia đình, nhiều lần chủ nợ đến đòi nợ, siết nợ, quấy phá gia đình, năm 2009, mẹ chị đã phải bán nhà đất ở X để trả nợ cho B; năm 2010, do lo sợ không tránh khỏi sự quấy phá của các chủ nợ nên mẹ chị nhờ chị lo cho em. Vì thương mẹ nên năm 2010, chị đã rút ra 4.785.000.000đồng để trả nợ cho anh Vũ C1 B; với số tiền trong thời gian đó đủ để mua cả thửa đất 90m2, tuy nhiên vì thương mẹ tuổi già, cũng không còn nhà ở nên chị đồng ý nhận tặng cho ½ thửa đất. Ngày 10/9/2010, mẹ con chị đã viết cam kết về việc bà G nhờ chị đứng ra trả và sau này bà G sẽ sang tên thửa đất cho chị, giấy này chị giữ đến khi làm Hợp đồng tặng cho và sang tên cho chị ½ thửa đất thì chị đã đưa trả mẹ, chỉ giữ lại bản chụp và in nộp lại cho Tòa án. Còn ½ thửa đất vẫn đứng tên mẹ chị, chị vẫn để mẹ chị cho thuê để lấy tiền chi tiêu sinh hoạt tuổi già.

Về lý do bà G trình bày là hợp đồng tặng cho chỉ là giả cách chị không đồng ý vì mẹ chị là cán bộ Nhà nước, là một giám định viên hiểu biết, có kiến thức do vậy việc lấy lý do bị cán bộ địa chính xúi là không có căn cứ; mặt khác tại sao làm tặng cho giả cách không bắt chị viết giấy, hoặc tặng cho con trai Vũ Xuân G1 mà lại tặng cho chị, do vậy việc bà G lấy lý do để trình bày việc tặng cho là giả cách là không có cơ sở, không phù hợp với sự thật khách quan, việc tặng cho và cấp giấy chứng nhận quyền sử đụng đất được thực hiện đúng theo quy định. Bản thân chị cũng đã phải mất rất nhiều tiền đưa cho bà G để lo việc trả nợ cho em trai, chị không thừa nhận việc bà G trình bày tiền bán nhà X đã cho chị mua nhà. Bà G có 02 con trai, chưa có chỗ ở, người thì phải ở nhà vợ, người thì phải thuê nhà, lấy đâu ra tiền mà cho con gái mua chung cư. Bản thân bà G cũng không có chỗ ở phải ở nhờ con dâu, con trai thì việc bà G trình bày là không có cơ sở.

Quá trình giải quyết vụ án chị Vũ Thị Hà P có yêu cầu phản tố, đề nghị công nhận quyền sử dụng đất và tài sản trên đất tại thửa số 241A, tờ bản đồ số 9 tại 63 P, Phúc La, Đ, H là của chị P; yêu cầu bà G bàn giao nhà đất và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ch P. Ngoài ra chị P không có yêu cầu gì khác, không tranh chấp tiền thuê và hợp đồng thuê nhà giữa bà G và ông Đỗ Văn B.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Vũ Xuân G1 và Vũ C1 B trình bày:

Nhất trí lời trình bày và đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà G, không đồng ý với yêu cầu phản tố của chị P. Anh Vũ Xuân G1, Vũ C1 B xác nhận về nguồn gốc tài sản của bố mẹ, sau khi bố chết không để lại di chúc nên gia đình gồm 4 mẹ con họp bàn và thống nhất để bà G được toàn quyền quản lý sử dụng; các anh không tranh chấp về thừa kế tài sản. Việc bà G tặng cho chị P ½ thửa đất các anh sau này mới biết nhưng không có ý kiến vì bà G nói là đây là hợp đồng giả cách vì bản thân chị P đã được mẹ cho tiền bán nhà ở X Nam.

2. Ông Đỗ Văn B trình bày, ông là người trực tiếp thuê nhà và trả tiền thuê cho bà G trên toàn bộ diện tích 89,9m2 tại số 63 P, phường Phúc La, Đ, H. Do công việc bận nên ông B xin vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án.

3. Văn phòng công chứng Bùi Hữu D trình bày:

Ngày 31.12.2010, Văn phòng công chứng T (nay là Văn phòng công chứng Bùi Hữu D) nhận yêu cầu công chứng Hợp đồng tặng cho giữa bà Phạm Thị G và chị Vũ Thị Hà P.

Việc tặng cho được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật,đúng ý chí nguyện vọng các bên, văn bản đã được đọc, ký từng trang. Phần lời chứng do sơ xuất lỗi đánh máy nên sai tên bà G và chị P, tuy nhiên sai xót này không ảnh hưởng đến tính đúng đắn và hiệu lực của hợp đồng.

4. Ủy ban nhân dân quận Đ có C1 văn số 558 ngày 08.8.2022 thể hiện: Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

5. Văn phòng đăng ký đất đai H - Chi nhánh quận Đ đã có C1 văn số 347 ngày 29.8.2022 có nội dung: Quy trình cấp Giấy chứng nhận số BDD do UBND quận Đ cấp ngày 18.01.2011 cho bà Vũ Thị Hà P đã thực hiện đúng theo quy định.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 04/2023/DS - ST, ngày 09/01/2023, Tòa án nhân dân quận Đ đã xét xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị G về việc yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 4763/2010/HĐGD do Văn phòng công chứng T (nay là Văn phòng công chứng Bùi Hữu D) lập ngày 31.12.2010 và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BĐ 688628 do UBND quận Đ cấp ngày 18/01/2011 cho bà Vũ Thị Hà P.

2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của chị Vũ Thị Hà P.

C1 nhận quyền sử dụng đất và tài sản trên đất trên tại thửa đất số 241A, tờ bản đồ số 9, diện tích 45m2 tại số 63 P, phường Phúc La, Đ, H. (Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BĐ 688628 do UBND quận Đ cấp ngày 18/01/2011 cho bà Vũ Thị Hà P) là tài sản hợp pháp của chị Vũ Thị Hà P.

Buộc bà Phạm Thị G trả chị Vũ Thị Hà P quyền sử dụng đất và tài sản trên đất tại thửa đất số 241, tờ bản đồ số 9 tại số 63 P, phường Phúc La, Đ, H và tài sản trên đất (Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 688628 do UBND quận Đ cấp ngày 18/01/2011 cho bà Vũ Thị Hà P) và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 688628 do UBND quận Đ cấp ngày 18/01/2011 cho bà Vũ Thị Hà P.

3. Đình chỉ yêu cầu chia thừa kế ½ thửa đất số 241, tờ bản đồ số 9, phường Phúc La, quận Đ, Thành phố H của bà Phạm Thị G.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án của các bên đương sự.

Không đồng ý với bản án sơ thẩm, ngày 10/1/2023 bà Phạm Thị G, anh Vũ C1 B và anh Vũ Xuân G1 có Đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với lý do, Bản án sơ thẩm giải quyết thiếu khách quan, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bà G và các con của bà là anh G1, anh B.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà G và anh G1, anh B giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà G và anh G1, anh B.

Bị đơn - Chị P vắng mặt tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự đã thực hiện quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Về nội dung: Sau khi phân tích, đánh giá quá trình giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát phát biểu:

- Hợp đồng tặng cho giữa bà Phạm Thị G và chị Vũ Thị Hà P lập ngày 31/12/2010, trong phần lời chứng của C1 chứng viên có sự nhầm lẫn giữa tên người cho và người tặng, cụ thể bên tặng cho là bà Đinh Thị Sộp và chồng là Đinh Văn Ấn. Bên nhận tặng cho là ông Đinh Văn Bằng và vợ là bà Vũ Thị Lợi. Ngoài lời chứng trên thì không có văn bản đính chính nào khác. Đề nghị Tòa án lấy lời khai của công chứng viên Vũ Thị Lan để làm rõ sai sót này là do đâu? Có chứng kiến việc tặng cho quyền sử dụng đất hay không? - Bổ sung quan hệ pháp luật “Chia thừa kế và yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất” vào nội dung quan hệ tranh chấp.

Đề nghị Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa để xác minh bổ sung những nội dung như đã phân tích nêu trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về tố tụng: Nguyên đơn - bà Phạm Thị G và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Vũ Xuân G1, anh Vũ C1 B có đơn kháng cáo trong thời hạn luật định. Bà G là người cao tuổi nên thuộc trường hợp không phải nộp tiền tạm ứng án phí. Anh G1, anh B đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên xác định kháng cáo là hợp lệ.

Bị đơn và một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật.

Đối với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đề nghị tạm ngừng phiên tòa để xác minh nội dung liên quan đến lời chứng của C1 chứng viên, do có sự nhầm lẫn giữa tên người cho và người tặng trong Hợp đồng tặng cho giữa bà G và chị P lập ngày 31/12/2010 tại Văn phòng công chứng T. Xét thấy, trong hồ sơ vụ án có tài liệu thể hiện, Văn phòng công chứng T nay là Văn phòng công chứng Bùi Hữu D có văn bản ngày 7/12/2020 đính kèm Hợp đồng tặng cho, đính chính tên trong phần lời chứng của C1 chứng viên đúng tên Bên cho là bà Phạm Thị G và Bên nhận tặng cho là chị Vũ Thị Hà P. Quá trình giải quyết vụ án, Văn phòng công chứng Bùi Hữu D có văn bản xác nhận trong phần lời chứng của C1 chứng viên có sự sai sót do lỗi đánh máy sai tên của bà G và chị P, nhưng sai sót này không ảnh hưởng đến tính đúng đắn và hiệu lực của Hợp đồng. Như vậy sự nhầm lẫn giữa tên người cho và người tặng trong Hợp đồng tặng cho nêu trên đã được Văn phòng công chứng có văn bản đính chính đính kèm Hợp đồng, do vậy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H về việc tạm ngừng phiên tòa để xác minh thêm về nội dung này là không cần thiết, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận việc tạm ngừng phiên tòa.

2. Về nội dung: Xét kháng cáo của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh G1 và anh B:

2.1 Xem xét tính hợp pháp của Hợp đồng tặng cho Căn cứ vào trình bày của các đương sự, tài liệu, chứng cứ do đương sự giao nộp và Tòa án thu thập được thể hiện, ngày 31/12/2010 bà G lập Hợp đồng tặng cho chị P quyền sử dụng thửa đất số 241A, tờ bản đồ số 9, có diện tích 45,0m2 tại địa chỉ số 63, đường P, Tổ dân phố số 1, phường Phúc La, quận Đ, thành phố H. Hợp đồng tặng cho được công chứng tại Văn phòng công chứng T (nay là Văn phòng công chứng Bùi Hữu D) số 4763/2010/HĐGD.

Theo bà G trình bày, lý do bà tặng cho chị P thời điểm đó do bà không hiểu biết, cộng với sự tư vấn của cán bộ địa chính nên bà cùng các gia đình hàng xóm mặt đường Nguyễn Chánh thực hiện việc chia tách thửa đất của gia đình làm 2 hoặc 3 thửa để nhằm mục đích kê khai khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án thì sẽ được đền bù hai suất đất, vì vậy bà mới nhờ chị P con gái bà đứng tên hộ chứ bà không cho chị P thửa đất này, chính vì vậy nên bà vẫn giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và trực tiếp cho ông Đỗ Văn B thuê nhà và thu tiền thuê nhà từ năm 2008 cho đến nay.

Đối với chị Vũ Thị Hà P trình bày, việc bà G lập Hợp đồng tặng cho chị thửa đất 241A là tự nguyện, lý do bà G cho chị thửa đất này là do em trai chị là anh Vũ C1 B chơi bời lêu lổng, phá tán tài sản gia đình. Năm 2010, do lo sợ sự quấy phá của các chủ nợ nên mẹ chị đã nhờ chị trả nợ cho anh Vũ C1 B số tiền 4.785.000.000 đồng. Thương mẹ tuổi già không còn nhà ở nên chị đồng ý nhận tặng cho ½ thửa đất. Ngoài lời trình bày, chị P nộp cho Tòa án bản văn bản cam kết (bản phô tô) về việc bà G nhờ chị đứng ra trả tiền hộ, sau này bà G sẽ sang tên ½ thửa đất cho chị.

Lời khai của anh B và anh G1 thể hiện, sau khi bố các anh mất, gia đình anh gồm mẹ anh là bà G, chị P và hai anh G1, anh B đã họp thống nhất để mẹ anh là bà G đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thời điểm bà G lập Hợp đồng tặng cho chị P quyền sử dụng đất thì các anh không biết. Khoảng năm 2019 - 2020 các anh mới biết do bà P nói chỉ làm hợp đồng giả để nhờ chị P đứng tên hộ, nếu có bị giải tỏa thì sẽ được 2 xuất đền bù tái định cư nên các anh không có ý kiến gì. Bà P, anh B và anh G1 phủ nhận lời khai của chị P về việc bà G nhờ chị P trả nợ thay cho anh B số tiền 4.785.000.000 đồng.

Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do các đương sự giao nộp và Tòa án thu thập được thể hiện.

Về nguồn gốc thửa đất: Các đương sự đều xác nhận Thửa đất 241, tờ bản đồ số 9 tại địa chỉ số 63 đường P, Tổ dân phố 1 phường Phúc La, Đ, H là tài sản chung của ông Vũ Xuân C1 và bà Phạm Thị G (bố mẹ chị P, anh G1 và anh Vũ C1 B). Năm 2005, ông C1 chết không để lại di chúc.

Trong hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có Biên bản họp gia đình ngày 15/3/2009, với sự có mặt của bà G, chị P, anh G1 và anh B, thống nhất để bà G đứng tên trong sổ đỏ và toàn quyền quản lý, sử dụng đối với thửa đất 241, tờ bản đồ số 9 tại 63 đường P, Tổ dân phố 1 phường Phúc La, Đ, H, vì vậy bà G mới làm thủ tục và được UBND quận Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 167803. Số vào sổ cấp GCN: CH- 00280 ngày 05/11/2010, diện tích 89,9m2 đứng tên bà Phạm Thị G. Như vậy nội dung Biên bản họp gia đình thể hiện ý chí của chị P, anh B và anh G1 thống nhất để bà G được quyền quản lý, sử dụng chứ không được quyền định đoạt đối với tài sản nêu trên. Thửa đất số 241, tờ bản đồ số 9 tại 63 đường P, Tổ dân phố 1 phường Phúc La, Đ, H được các đương sự xác nhận là tài sản chung của vợ chồng bà G và ông C1. Do vậy khi ông C1 chết thì ½ thửa đất được xác định là di sản của ông C1 để lại cho hàng thừa kế thứ nhất là bà G, chị P, anh G1 và anh B. Việc bà G lập Hợp đồng tặng cho chị P ½ thửa đất khi chưa được phân chia cụ thể nên mặc dù bà P cho tặng ½ thửa đất, không vượt quá kỷ phần của bà, nhưng khi lập Hợp đồng tặng cho anh B, anh G1 đều không biết nên việc bà P một mình định đoạt không có sự thống nhất của các đồng thừa kế vẫn là trái quy định của pháp luật.

Đối với việc chị P trình bày, chị phải bỏ số tiền 4.785.000.000 đồng để trả nợ cho anh B, đây chính là lý do bà G lập Hợp đồng tặng cho chị ½ quyền sử dụng thửa đất, nhưng chị P không đưa ra được tài liệu chứng cứ chứng minh việc chị P đưa tiền cho bà G cũng như chứng cứ chứng minh việc chị phải trả nợ thay cho anh B. Đối với Văn bản ghi nhớ giữa bà G và chị P lập ngày 10/9/2010 do chị P nộp cho Tòa án có nội dung thể hiện, chị P đưa cho bà G số tiền 4.785.000.000đồng để bà G trả nợ cho anh B, sau này bà G sẽ sang tên ½ ngôi nhà tại phố Nguyễn Chánh, Đ cho chị P, tuy nhiên văn bản này chỉ là bản phô tô do chị P xuất trình, không phải là bản gốc, phần chữ ký (phô tô) của bà Phạm Thị G không rõ nét (tẩy xóa) nên văn bản này không được xác định là nguồn chứng cứ hợp pháp.

Căn cứ vào sơ đồ đo đạc thửa đất do C1 ty TNHH Tài nguyên và Môi trường H đo đạc tại thời điểm Tòa án nhân dân quận Đ tiến hành thẩm định ngày 30/6/2022 thể hiện, thửa đất 241 đứng tên bà G có diện tích 34m2; Thửa 241A đứng tên chị P có diện tích 52,7m2. Các đương sự trong vụ án đều xác định từ khi lập Hợp đồng tặng cho đến nay không có biến động. Hiện trạng thửa đất không có gì thay đổi so với thời điểm lập Hợp đồng tặng cho. Như vậy phần diện tích tặng cho chị P 45m2 theo Hợp đồng tặng cho không phù hợp với thực tế đo đạc. Phần diện tích đất 44,9m2 còn lại ghi trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà G cũng không phù hợp với thực tế đo đạc (34m2 ).

Tại Biên bản thẩm định ngày 30/6/2022 của Tòa án nhân dân quận Đ đã ghi: Thửa đất 241A đúng như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dứng tên bà P có diện tích 45m2. Có tứ cận đông nam giáp bà G…Thửa đất 241 đúng như Giấy chứng nhận đứng tên bà G có diện tích 44,9m2 có tứ cận Tây bắc giáp nhà chị P, như vậy nội dung này là không phù hợp với hồ sơ đo đạc thửa đất (Diện tích thẩm định với diện tích theo sơ đồ đo vẽ thực tế không phù hợp nhau) Bản mô tả trong Biên bản thẩm định về tài sản trên đất thể hiện, Thửa đất số 241A (đứng tên chị P) và thửa đất 241 (đứng tên bà G) có chung 01 nhà cấp 4 xây tường 220, xây trước năm 1985 không có công trình phụ và chung tường (không có mốc giới).

Như vậy có thể thấy, việc cho tặng chưa được các bên bàn giao mốc giới trên thực tế. Phần mốc giới diện tích đất tặng, cho trong hồ sơ cấp Giấy chứng nhận không phù hợp với thực tế.

Từ khi lập Hợp đồng tặng cho đến nay thì bà G vẫn đang quản lý, sử dụng, theo bà G trình bày, bà G đã cho ông Đỗ Văn B thuê nhà và nhận tiền thuê nhà của ông B từ nhiều năm nay. Lời khai của bà G phù hợp với lời khai của ông B về việc ông B thuê nhà trực tiếp của bà G và trả tiền thuê nhà cho bà G. Phù hợp với thực tế cho đến nay bà G vẫn giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không chuyển giao quyền sử dụng, sở hữu tài sản cho chị P. Chị P cũng không có ý kiến gì về đòi quyền sở hữu, sử dụng cho đến khi bà G có yêu cầu khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án chị P mới có yêu cầu phản tố.

Do vậy, mặc dù bà G không đưa ra được căn cứ xác định lý do bà lập Hợp đồng tặng cho chị P nhà đất để tách thửa nhằm mục đích khi Nhà nước thu hồi đất thì sẽ được đền bù bằng 2 suất đất, nhưng căn cứ vào việc bà G đến nay vẫn đang quản lý, sử dụng nhà đất và các Giấy tờ về nhà đất, có căn cứ xác định việc bà G lập Hợp đồng tặng cho chị P thửa đất 241A là giả tạo, không đúng với ý chí của bà. Việc bà G lập Hợp đồng tặng cho chỉ là hình thức, thực tế không có việc cho tặng.

Các số đo trong hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị P (năm 2011) không phù hợp với thực tế đo đạc tại thời điểm xem xét thẩm định, điều đó cũng thể hiện việc lập hợp đồng tặng cho là thiếu khách quan, không đúng thực tế.

Do vậy cần xác định Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng thửa đất số 241A, tờ bản đồ số 9, có diện tích 45,0m2 tại địa chỉ số 63, đường P, Tổ dân phố số 1, phường Phúc La, quận Đ, thành phố H giữa bà G và chị P lập ngày 31/12/2010 tại Văn phòng công chứng T (nay là Văn phòng công chứng Bùi Hữu D) số công chứng 4763/2010/HĐGD là giả tạo, do không đúng ý chí của bà G là người có tài sản.

2.2. Đối với yêu cầu độc lập của chị P về công nhận quyền sử dụng đất và tài sản trên đất tại thửa đất số 241A, tờ bản đồ số 9, diện tích 45m2 tại số 63 P, phường Phúc La, Đ, H (theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BĐ 688628 do UBND quận Đ cấp ngày 18/01/2011 cho bà Vũ Thị Hà P) là tài sản hợp pháp của chị và buộc bà G phải trả cho chị quyền sử dụng đất và tài sản trên đất và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên cho chị P.

Như đã phân tích ở nội dung trên, Hợp đồng tặng cho bị xác định là vô hiệu nên không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu độc lập của chị P về việc công nhận quyền sử dụng đất và tài sản trên đất tại thửa đất số 241A, tờ bản đồ số 9, diện tích 45m2 tại số 63 P, phường Phúc La, Đ, H là của chị P cũng như yêu cầu của chị P buộc bà G phải bàn giao cho chị P nhà đất và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản trên đất đã cấp đứng tên chị P đối với thửa đất nêu trên.

Tuy nhiên căn cứ vào Sơ đồ nhà đất do C1 ty TNHH Tài nguyên và Môi trường H đo đạc thì thửa đất 241 có diện tích 34m2. Thửa đất 241A có diện tích 52,7m2. Như vậy, 2 thửa này cộng lại có diện tích 86,7m2 (so với Giấy chứng nhận BC 167803. Số vào sổ cấp GCN: CH-00280 do UBND quận Đ đã cấp ngày 05/11/2010 cho bà Phạm Thị G có diện tích 89,9m2 thì diện tích đo thực tế hiện nay bị giảm 3,2m2). Bà G có quyền đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để giao nộp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BĐ 688628. Số vào sổ cấp GCN: CH-00343 do UBND quận Đ cấp ngày 18/01/2011 cho bà Vũ Thị Hà P và làm thủ tục điều chỉnh lại Giấy chứng nhận BC 167803. Số vào sổ cấp GCN: CH-00280 do UBND quận Đ đã cấp ngày 05/11/2010 cho bà Phạm Thị G (có bản sao Sơ đồ nhà đất kèm theo bản án).

Từ những phân tích trên xác định, kháng cáo của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - anh B, anh G1 là có cơ sở nên được chấp nhận. Sửa bản án sơ thẩm, xác định Hợp đồng tặng cho bị vô hiệu do giả tạo. Hủy Hợp đồng tặng cho và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp đứng tên Vũ Thị Hà P đối với thửa đất số 241A, tờ bản đồ số 9, diện tích 45m2 tại số 63 P, phường Phúc La, quận Đ, H.

Không chấp nhận yêu cầu phản tố của chị P đối với bà G.

Do bà G vẫn quản lý, sử dụng tài sản là nhà đất nêu trên mà chưa có sự chuyển giao quyền nghĩa vụ cho chị P trên thực tế, nên xác định không có thiệt hại sảy ra khi xác định Hợp đồng tặng cho bị tuyên là vô hiệu.

3. Về án phí:

Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo của bà G và anh G1, anh B nên bà G, anh G1 và anh B không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm.

Bị đơn - chị P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và án phí đối với yêu cầu độc lập không được chấp nhận theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ các Điều 117, 124 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2023/DSST ngày 09/01/2023 của Tòa án nhân dân quận Đ, thành phố H.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - bà Phạm Thị G đối với bị đơn - chị Vũ Thị Hà P 2. Tuyên Hủy Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số công chứng 4763/2010/HĐGD lập ngày 31.12.2010 tại Văn phòng công chứng T (nay là Văn phòng công chứng Bùi Hữu D), giữa bên cho là bà Phạm Thị G và bên nhận tặng cho là chị Vũ Thị Hà P.

3. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BĐ 688628. Số vào sổ cấp GCN: CH-00343 do UBND quận Đ cấp ngày 18/01/2011 cho bà Vũ Thị Hà P.

4. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của chị Vũ Thị Hà P về việc công nhận quyền sử dụng đất và tài sản trên đất tại thửa đất số 241A, tờ bản đồ số 9, diện tích 45m2 tại số 63 P, phường Phúc La, Đ, H (theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BĐ 688628. Số vào sổ cấp GCN: CH-00343 do UBND quận Đ cấp ngày 18/01/2011 cho bà Vũ Thị Hà P) là tài sản hợp pháp của chị Vũ Thị Hà P; không châp nhận yêu cầu của chị Vũ Thị Hà P buộc bà Phạm Thị G phải bàn giao trả nhà đất và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất nêu trên cho chị Vũ Thị Hà P.

5. Đình chỉ yêu cầu chia thừa kế ½ thửa đất số 241, tờ bản đồ số 9, phường Phúc La, quận Đ, thành phố H của bà Phạm Thị G.

6. Bà Phạm Thị G được quyền đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để giao nộp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BĐ 688628. Số vào sổ cấp GCN: CH-00343 do UBND quận Đ cấp ngày 18/01/2011 cho bà Vũ Thị Hà P, đối với thửa đất số 241A, tờ bản đồ số 9, diện tích 45m2 tại số 63 P, phường Phúc La, quận Đ, H và làm thủ tục điều chỉnh lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BC 167803. Số vào sổ cấp GCN: CH-00280 do UBND quận Đ đã cấp ngày 05/11/2010 đứng tên bà Phạm Thị G.

7. Về án phí Bà Phạm Thị G không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm.

Anh Vũ Xuân G1 và anh Vũ C1 B không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, hoàn trả anh G1, anh B mỗi người 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0011014 và 0011015 ngày 16/01/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Đ, thành phố H Chị P phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí đối với yêu cầu phản tố không được chấp nhận, tổng cộng là 600.000 đồng, được trừ vào số tiền 21.000.000 đồng chị P đã nộp tạm ứng án phí theo Biên lai số 0010871 ngày 07/12/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Đ, thành phố H. Hoàn trả lại cho chị P số tiền 20.400.000 đồng.

8. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai phúc thẩm, có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

65
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tặng cho số 467/2023/DS-PT

Số hiệu:467/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về