Bản án về tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 297/2023/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 297/2023/DS-PT NGÀY 30/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 30 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh C xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 266/2023/TLPT-DS ngày 14 tháng 7 năm 2023 về việc: “Yêu cầu tuyền bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vô hiệu”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 79/2023/DS-ST ngày 23 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện T bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 283/2023/QĐ-PT ngày 01 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trần Văn M, sinh năm 1971 (có mặt).

- Bị đơn: 1. Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1966 (có mặt).

2. Bà Trà Thị S, sinh năm 1961 (có mặt). Cùng địa chỉ: Ấp C, xã P, huyện T, tỉnh C ..

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ủy ban nhân dân huyện T (vắng mặt).         

2. Ngân hàng V.

Địa chỉ: Số 18 Trần Hữu Dực, phường Mỹ Đình 1, quận T, thành phố N.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Sơn Vĩnh Ph4 – Giám đốc Phòng giao dịch Sông Đốc, huyện T (vắng mặt).

3. Ông Nguyễn Phi Th2, sinh năm 1987 (vắng mặt)

4. Bà Lê Thị C (vợ ông Th2, vắng mặt).

5. Ông Nguyễn Phi A, sinh năm 1989 (vắng mặt). Cùng địa chỉ: Ấp C, xã P, huyện T, tỉnh C ..

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Trần Văn M trình bày: Vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Trà Thị S nợ ông số tiền hụi. Theo bản án phúc thẩm số 304/2020/DS-PT ngày 25/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh C đã buộc vợ chồng ông Q, bà S trả cho ông số tiền 286.000.000 đồng. Ông M yêu cầu thi hành án thì được biết trong thời gian tranh chấp chờ Tòa án giải quyết thì vào ngày 23/7/2020 ông Nguyễn Văn Q và bà Trà Thị S đã ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho con là ông Nguyễn Phi A toàn bộ phần đất ở các thửa đất số 147, 148, tờ bản đồ số 04, diện tích là 22.870m² tọa lạc ấp Công Điền, xã Phong Điền do ông Nguyễn Văn Q đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 31/7/2023 ông Nguyễn Phi A được chỉnh lý trang 4 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Q. Sau khi tặng cho đất thì ông Q và bà S không còn tài sản để thi hành án cho ông M vì đây là tài sản duy nhất của vợ chồng ông Q, bà S. Sau khi tặng cho đất thì ông Phi A vẫn không canh tác mà toàn bộ phần đất vẫn do ông Q và bà S canh tác nên việc tặng cho đất của ông Q và bà S là nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án cho ông M khi bản án có hiệu lực. Do đó, ông M khởi kiện yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Trà Thị S với ông Nguyễn Phi A lập ngày 23/7/2020 để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án của vợ chồng ông Q, bà S đối với ông M.

Bị đơn, ông Nguyễn Văn Q và bà Trà Thị S trình bày: Ông Q và bà S thừa nhận trong quá trình Tòa án nhân dân huyện T thụ lý giải quyết vụ án dân sự về tranh chấp tiền hụi giữa vợ chồng ông, bà với ông M theo hồ sơ thụ lý số 481/2019/TLST-DS ngày 24 tháng 10 năm 2019 thì đến ngày 23 tháng 7 năm 2020 ông Q và bà S đã ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đối với toàn bộ phần đất tại các thửa đất số 147, 148, tờ bản đồ số 04, diện tích là 22.870m² tọa lạc ấp Công Điền, xã Phong Điền do ông Q đứng tên năm 1994 cho con ông Q và bà S là ông Nguyễn Phi A cùng sống chung nhà với ông, bà. Việc tặng cho đã thực hiện xong, đã được chỉnh lý biến động sang tên ông Nguyễn Phi A ngày 31 tháng 7 năm 2020. Phần đất này hiện nay vợ chồng ông, bà đang trực tiếp canh tác, ông Phi A do đi làm xa nên không trưc tiếp canh tác trên đất. Ông, bà xác định đây là tài sản duy nhất mà vợ chồng ông có từ trước đến nay, ngoài tài sản này ra vợ chồng ông không còn tài sản nào khác. Ông Q và bà S thừa nhận sau khi tặng cho quyền sử dụng đất thì ông, bà không còn tài sản để thi hành bản án phúc thẩm số 304/2020/DS-PT ngày 25/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh C, và hiện nay ông Q và bà S không có khả năng trả cho ông M số tiền 286.000.000 đồng theo quyết định thi hành án số 978 ngày 21/01/2021 của Chi cục thi hành án huyện T. Hiện nay, ông Nguyễn Phi A đã được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp pháp nên không đồng ý hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng V do người đại diện theo ủy quyền là ông Sơn Vĩnh Ph4 trình bày:

Ông Nguyễn Phi A có vay vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh huyện T – Phòng giao dịch Sông Đốc. Để bảo đảm các khoản vay, ông Phi A thế chấp các thửa đất số 147, 148, tờ bản đồ số 04, diện tích là 22.870m² tọa lạc ấp Công Điền, xã Phong Điền, huyện T, tỉnh C. Tuy nhiên, hiện tại ông Phi A đã thanh toán xong toàn bộ số nợ vay, hiện không còn nợ tiền Ngân hàng do đó Ngân hàng không còn liên quan gì đối với vụ tranh chấp giữa các đương sự nêu trên.

Quá trình giải quyết vụ án, bà Trà Thị S, ông Nguyễn Phi Th2, ông Nguyễn Phi A, bà Lê Thị C và Ủy ban nhân dân huyện T không cung cấp văn bản trình bày ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 79/2023/DS-ST ngày 23 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời quyết định:

Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 23 tháng 7 năm 2020 giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Trà Thị S với ông Nguyễn Phi A, được Ủy ban nhân dân xã Phong Điền chứng thực số 01, Quyển số 01-SCT/HĐ,GD vô hiệu.

sự.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương Ngày 24/4/2023 bị đơn là ông Nguyễn Văn Quốc, bà Trà Thị Sớm và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Phi A kháng cáo yêu cầu sửa án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Trần Văn M.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Ông Quốc, bà Sớm, ông Phi A giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và tranh luận cho rằng việc ông Q và bà S ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ông Nguyễn Phi A là hợp pháp, hiện nay ông Q và bà S không còn khả năng trả nợ thì yêu cầu ông Phi A trả nợ cho ông M.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C phát biểu: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn Quốc, bà Trà Thị Sớm, ông Nguyễn Phi A, Hội đồng xét xử xét thấy:

Các thửa đất số 0147, 0148 tờ bản đồ số 04 tọa lạc tại ấp Công Điền, xã Phong Điền, huyện T, tỉnh C được UBND huyện T, tỉnh Minh Hải (nay là tỉnh C) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C 338348 ngày 09 tháng 3 năm 1994 cho ông Nguyễn Văn Q với diện tích 22.870m² đã được ông Q và bà S ký hợp đồng tặng cho ông Nguyễn Phi A vào ngày 23/7/2020. Ông Nguyễn Phi A đã được chỉnh lý trang 4 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 31/7/2020. Việc ông Q và bà S thừa nhận đã tặng cho quyền sử dụng đất cho anh Nguyễn Phi A trong thời gian Tòa án nhân dân huyện T thụ lý giải quyết vụ án dân sự về tranh chấp tiền hụi giữa vợ chồng ông Q và bà S với ông M theo hồ sơ thụ lý số 481/2019/TLST-DS ngày 24 tháng 10 năm 2019. Ông Q và bà S cũng thừa nhận sau khi tặng cho đất thì ông, bà không còn tài sản để thi hành án cho ông M theo Bản án phúc thẩm số 304/2020/DS-PT ngày 25/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh C đã buộc vợ chồng ông Q, bà S trả cho ông M số tiền 286.000.000 đồng. Sau khi ông Q và bà S tặng cho đất ông Phi A thì ông Q và bà S vẫn thừa nhận đang canh tác trên đất vì anh Phi A đi làm nơi khác không trực tiếp canh tác trên đất. Do đó việc tặng cho đất của ông Q và bà S chỉ là hình thức do ông Q và bà S vẫn đang quản lý để canh tác sử dụng đất, ông Phi A không trực tiếp quản lý, sử dụng đất. Theo quy định tại khoản 3 Điều 191 của Luật Đất đai năm 2013 quy định “Hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa”. Mặc khác, ngoài phần đất ông Q được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông Q và bà S không còn tài sản nào khác để thi hành bản án cho ông M, nhưng ông Q và bà S tặng cho quyền sử dụng đất cho ông Phi A là nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án đối với ông M. Bản án sơ thẩm tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vô hiệu là có cơ sở.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm: Ông Q, bà S và ông Phi A không có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo nên không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Q, bà S và ông Phi A.

[3] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tại phiên tòa là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận:

[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Quốc, ông Phi A phải chịu theo quy định. Bà Sớm được miễn do bà Sớm là người cao tuổi.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn Quốc, bà Trà Thị Sớm và ông Nguyễn Phi A. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 79/2023/DS- ST ngày 23 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện T.

Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 23 tháng 7 năm 2020 giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Trà Thị S với ông Nguyễn Phi A, được Ủy ban nhân dân xã Phong Điền chứng thực vô hiệu.

Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Trà Thị S phải chịu 300.000 đồng. Ông Trần Văn M không phải chịu án phí. Hoàn trả cho ông Trần Văn M 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 0004955 ngày 10 tháng 5 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh C.

Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Sớm được miễn theo quy định. Ông Nguyễn Văn Quốc, ông Nguyễn Phi A mỗi người phải chịu 300.000 đồng, ngày 24/4/2023 ông Quốc, ông Phi A mỗi người đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0006613 và 0006614 ngày 24/4/2023 được chuyển thu.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các quyết định khác không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 297/2023/DS-PT

Số hiệu:297/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:30/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về