Bản án về tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số 139/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 139/2023/DS-ST NGÀY 31/05/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG SỬ DỤNG THẺ TÍN DỤNG

Trong ngày 31 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 955/2022/TLST-DS ngày 26 tháng 12 năm 2022 về tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2684/2023/QĐXXST-DS ngày 26 tháng 4 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 3263/2023/QĐST-DS ngày 12 tháng 5 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP SGTT Địa chỉ: 266-268 NKKN, Phường T, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Huỳnh T T, sinh năm 1989, căn cước công dân số: ……….327 cấp ngày 24/7/2022, địa chỉ liên hệ: 28-30-32 N T N, phường B T, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh là người đại diện theo ủy quyền (Theo Văn bản ủy quyền ngày 09/6/2023) – Có mặt.

- Bị đơn: Bà Hồ Thụy T L, sinh năm 1983, căn cước công dân số: 079183xxx245 cấp ngày 11/6/2020; địa chỉ: 96/30 L L, phường B T, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại Đơn khởi kiện đề ngày 01 tháng 12 năm 2022 và lời khai trong quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa, Ngân hàng TMCP SGTT có bà Huỳnh Thị Thủy là người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ngày 25/9/2020, bà Hồ Thụy T L có ký với Ngân hàng TMCP SGTT – Chi nhánh Bến Thành (sau đây gọi là Ngân hàng) Hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thể tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng - Các tài liệu này được gọi chung là Hợp đồng). Căn cứ thu nhập của bà L, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 25.000.000 đồng với mục đích tiêu dùng cá nhân.

Sau khi được cấp Thẻ tín dụng, bà L đã thực hiện các giao dịch từ tháng 10/2020 đến tháng 3/2021 với tổng số tiền là 24.668.700 đồng.

Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay bà L đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 5.060.000 đồng. Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng bà L vẫn không có thiện chí trả nợ. Do bà L vi phạm nghĩa vụ thanh toán (theo Điều 18 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng), ngày 23/7/2021 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn (theo Điều 24 của Bản Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng).

Tính đến ngày 23/3/2023, bà Hồ Thụy T L còn nợ Ngân hàng số tiền là 50.011.921 đồng, trong đó: nợ gốc là 27.913.138 đồng và lãi quá hạn là 22.098.783 đồng.

Mặc dù Ngân hàng đã thường xuyên đôn đốc, nhiều lần làm việc trực tiếp, yêu cầu bà L có trách nhiệm thanh toán ngay khoản nợ quá hạn, đồng thời Ngân hàng cũng tạo điều kiện về mặt thời gian để bà L trả nợ, tuy nhiên bà L vẫn chưa thanh toán khoản nợ quá hạn cho Ngân hàng theo cam kết, vi phạm các điều khoản đã quy định tại Hợp đồng đã ký.

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Hồ Thụy T L phải thanh toán số tiền gốc và lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm 31/5/2023 là 52.515.724 đồng, trong đó: nợ gốc là 27.913.138 đồng và lãi quá hạn là 24.602.586 đồng. Bà Hồ Thụy T L có trách nhiệm thanh toán khoản lãi phát sinh sau ngày 31/5/2023 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại Hợp đồng.

- Bị đơn là bà Hồ Thụy T L trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai theo quy định pháp luật, nhưng bị đơn không có văn bản phản hồi ý kiến, không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án, không đến Tòa án để giải quyết vụ án nên vụ án không tiến hành hòa giải được và vắng mặt tại phiên tòa.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thầm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét và thẩm tra tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1] Ngân hàng TMCP SGTT khởi kiện bà Hồ Thụy T L tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng. Theo kết quả xác minh của Công an Phường Nguyễn Thái Bình, Quận 1: “Công dân Hồ Thụy T L, sinh năm 1983 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại 96/30 L L, phường B T, Quận M, hiện đang thực tế cư trú tại địa chỉ trên”; bị đơn cư trú tại Quận 1, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Bà Hồ Thụy T L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về áp dụng pháp luật nội dung:

[3] Xét yêu cầu của Ngân hàng buộc bà Hồ Thụy T L thanh toán số tiền nợ gốc và nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm 31/5/2023 là 52.515.724 đồng; Hội đồng xét xử xét thấy:

[4] Bà Hồ Thụy T L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt và không có ý kiến phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bằng văn bản theo quy định tại khoản 2 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, căn cứ lời khai của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do nguyên đơn cung cấp đã được công bố tại phiên tòa gồm: Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng số 437/HĐTD/2020 ngày 25/9/2020; Bảng sao kê tài khoản ngân hàng của bà L từ ngày 22/10/2020 đến ngày 31/5/2023; Biểu phí sản phẩm dịch vụ thẻ tín dụng của Ngân hàng quy định về mức lãi suất đối với thẻ tín dụng quốc tế; Thông báo chuyển nợ quá hạn ngày 23/7/2021; Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng.

[5] Xác định Ngân hàng có cho bà Hồ Thụy T L vay tiền theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng số 437/HĐTD/2020 ngày 25/9/2020, hạn mức sử dụng 25.000.000 đồng, mục đích tiêu dùng cá nhân, loại thẻ đăng ký: Thẻ JCB Classic phát hành mới, lãi suất tại thời điểm làm thẻ 31,20%/năm. Theo đó bà L được cấp thẻ tín dụng số 3564809524, hạn mức thẻ 25.000.000 đồng, quá trình sử dụng thẻ, bà L đã sử dụng 24.668.700 đồng, thanh toán được 5.060.000 đồng, còn lại 27.913.138 đồng, do bà L không thanh toán tiền theo đúng quy định nên ngày 23/7/2021 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ tín dụng, chốt số nợ gốc là 27.913.138 đồng.

[6] Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo Điều 18 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng, nên ngày 23/7/2021, Ngân hàng đã ra Thông báo chuyển nợ quá hạn, chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn theo Điều 24 của Bản Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng, yêu cầu bà L phải thanh toán toàn bộ số tiền nợ cho Ngân hàng; việc chuyển nợ quá hạn đối với khoản vay quá hạn và thu hồi nợ trước hạn là phù hợp với mục 4 Điều 24 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng và phù hợp với quy định tại Điều 91, Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng; lãi, lãi suất chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm xác định theo quy định tại khoản 2, 3 và 4 Điều 8 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.

[7] Từ những nhận định trên, việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán nợ gốc và tiền lãi theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng số 437/HĐTD/2020 ngày 25/9/2020 là phù hợp với thỏa thuận của các bên trong hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng và quy định tại Điều 91, Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; các Điều 18, 20, 21 Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng nên có căn cứ để được chấp nhận.

[8] Số tiền gốc và lãi bị đơn phải trả đối với Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng số 437/HĐTD/2020 ngày 25/9/2020 là 52.515.724 đồng, gồm: nợ gốc là 27.913.138 đồng và lãi quá hạn tính đến ngày 31/5/2023 là 24.602.586 đồng.

[9] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải trả cho nguyên đơn, án phí dân sự sơ thẩm là 2.625.786 đồng.

[10] Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 266, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 91, Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Buộc bà Hồ Thụy T L có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng TMCP SGTT số tiền nợ gốc là là 27.913.138 đồng và nợ lãi tính đến ngày 31 tháng 5 năm 2023 là 24.602.586 đồng. Tổng cộng là 52.515.724 đồng, ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật dưới sự giám sát của cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày 01/6/2023 cho đến khi thi hành án xong, bà Hồ Thụy T L còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng số 437/HĐTD/2020 ngày 25 tháng 9 năm 2020. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm là 2.625.786 đồng, bà Hồ Thụy T L chịu.

Ngân hàng TMCP SGTT không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn lại cho Ngân hàng TMCP SGTT số tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp là 1.148.694 đồng theo biên lai số AA/2022/0018196 ngày 26 tháng 12 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Về quyền kháng cáo: Ngân hàng TMCP SGTT có quyền kháng cáo bản án, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bà Hồ Thụy T L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số 139/2023/DS-ST

Số hiệu:139/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về