TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 56/2023/KDTM-ST NGÀY 29/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG SANG NHƯỢNG ĐƯỜNG RÁC
Ngày 29 tháng 08 năm 2023 tại Tòa án nhân dân Quận 10 – Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 45/2021/TLST-KDTM ngày 24 tháng 12 năm 2021 về việc: “Tranh chấp hợp đồng sang nhượng đường rác”. Tuyên án ngày 29 tháng 08 năm 2023.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 122/2023/QĐXXST-KDTM ngày 04 tháng 07 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 92/2023/QĐST-KDTM ngày 03 tháng 08 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty TNHH Môi trường Thiện N Trụ sở: đường X, xã Y, huyện Z, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị N - Chức danh: Giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Bà Dương Thị Kiều O - sinh năm 1985 (có mặt) Địa chỉ: đường M, phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (theo giấy ủy quyền ngày 14/12/2021).
2. Bị đơn: Công ty TNHH Thành V Trụ sở: đường A, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Bảo Q - Chức danh: Giám đốc (có mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Đặng Minh G - Luật sư Văn phòng Luật sư Đặng Minh G thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Hợp tác xã Dịch vụ Môi trường Thương mại và Nông nghiệp B Trụ sở: đường T, thị trấn U, huyện Z, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Công L– Chức danh: Chủ tịch hội đồng quản trị (có đơn xin vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 07/12/2021, đơn xác nhận lại yêu cầu khởi kiện ngày 17/05/2023 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn trình bày:
Vào ngày 18/08/2019, Công ty TNHH Môi trường Thiện N (gọi tắt là Công ty Thiện N) và Công ty TNHH Thành V (gọi tắt là Công ty Thành V) ký Biên bản sang nhượng đường rác tại Chung cư Sài Gòn Mia, tọa lạc tại ấp 4, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh với số tiền là 100.000.000 đồng.
Ngày 28/09/2019, Công ty Thiện N và Công ty Thành V ký hợp đồng sang nhượng quyền đường rác tại Khu dân cư Trung Sơn, tọa lạc tại ấp 4, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngay sau ký hợp đồng, Công ty Thiện N đã chuyển cho Công ty Thành V số tiền đặt cọc là 800.000.000 đồng. Ngày 07/12/2019, Công ty Thiện N và Công ty Thành V ký phụ lục hợp đồng, nội dung thống nhất hợp đồng còn lại 17 tháng x 113.000.000 đ = 1.921.000.000 đồng.
Ngày 13/01/2020, Công ty Thiện N gửi Công văn cho Công ty Thành V có chữ ký xác nhận của ông Trần Bảo Q, hai bên thỏa thuận chấm dứt đồng và xử lý tiền sang nhượng đường rác Chung cư Sài Gòn Mia với nội dung Công ty Thành V hoàn trả tiền sang nhượng lại 100.000.000 đồng thời hạn chót 20/01/2020 hoặc trừ vào Hợp đồng sang nhượng đường rác Trung Sơn.
Thực hiện hợp đồng ngày 28/09/2019, Công ty Thiện N đã thu gom rác tại Khu dân cư Trung Sơn như sau: Từ 28/09/2019 đến 07/12/2019, Công ty Thiện N trực tiếp thu gom rác nhưng Công ty Thành V trực tiếp thu số tiền rác các hộ dân là 339.000.000 đồng; từ 08/12/2019 đến 07/03/2020, Công ty Thiện N trực tiếp thu gom rác và trực tiếp thu tiền của các hộ dân là 129.000.000 đồng; đến ngày 08/03/2020 thì Công ty Thành V tự ý lấy lại đường rác để trực tiếp thu gom rác và thu tiền rác.
Tuy nhiên, theo quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 6 của Quyết định số 12/2019/QĐ-UBND ngày 17/5/2019 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thì Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn là cơ quan trực tiếp quản lý cung ứng dịch vụ thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt từ các cá nhân, hộ gia đình, chủ nguồn thải, nơi công cộng đến các điểm hẹn hoặc trạm trung chuyển. Đối với địa bàn huyện Bình Chánh, Uỷ ban nhân dân xã Bình Hưng (gọi tắt là UBND xã Bình Hưng) ký hợp đồng trách nhiệm với Hợp tác xã Dịch vụ Môi trường Thương mại và Nông nghiệp B (gọi tắt là Hợp tác xã), sau đó Hợp tác xã giao lại cho thành viên trong Hợp tác xã trực tiếp thu gom rác. Do đó, hai Công ty thỏa thuận trong hợp đồng là Công ty Thành V có trách nhiệm hoàn tất thủ tục pháp lý tại Hợp tác xã để Công ty Thiện N thực hiện quyền thu gom rác và nộp thuế theo quy định, theo thỏa thuận thời hạn cuối là ngày 20/1/2020, khi Công ty Thành V đã hoàn tất thủ tục chuyển quyền thu gom rác thì Công ty Thiện N có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ số tiền còn lại của hợp đồng; nếu trong trường hợp đến hạn ngày 20/01/2020 mà Công ty Thành V chưa hoàn tất thủ tục chuyển quyền thì số tiền còn lại của hợp đồng sẽ được Công ty Thiện N thanh toán dần trong vòng 12 tháng, mỗi tháng là 93.417.000 đồng bắt đầu thanh toán từ ngày 20/02/2020.
Đến ngày 20/01/2020, Công ty Thành V không hoàn tất thủ tục pháp lý cho Công ty Thiện N, nhưng ép Công ty Thiện N phải thanh toán ngay toàn bộ số tiền còn lại. Vào ngày 08/03/2020, Công ty hành Vạn ngang nhiên vào thu gom rác và thu tiền tại khu Trung Sơn. Công ty Thiện N cũng nhiều lần yêu cầu Công ty Thành V nếu hủy hợp đồng thì phải trả lại cho Công ty Thiện N toàn bộ số tiền mà Công ty Thành V đã nhận và bồi thường toàn bộ giá trị hợp đồng nhưng Công ty Thành V không đồng ý.
Sau đó, Công ty Thiện N được biết Biên bản sang nhượng đường rác ngày 18/08/2019, Hợp đồng sang nhượng đường rác ngày 28/09/2019 và phụ lục hợp đồng ngày 07/12/2019 là không đúng quy định của pháp luật. Do đó, Công ty Thiện N chỉ yêu cầu:
- Tuyên Biên bản sang nhượng đường rác ngày 18/08/2019, Hợp đồng sang nhượng đường rác ngày 28/09/2019 và phụ lục hợp đồng ngày 07/12/2019 là vô hiệu;
- Buộc Công ty Thành V trả lại cho Công ty Thiện N số tiền sang nhượng đường rác tại Chung cư Sài Gòn Mia là 100.000.000 đồng; số tiền đặt cọc tại đường rác tại Khu dân cư Trung Sơn là 800.000.000 đồng. Tổng cộng là 900.000.000 đồng.
- Đối với yêu cầu Công ty Thành V trả số tiền thu phí thu gom rác của 03 tháng cuối năm 2019 là 339.000.000 đồng; tiền phạt vi phạm hợp đồng theo thỏa thuận tại khoản 6 của Hợp đồng ngày 28/09/2019 là 2.260.000.000 đồng; tiền lãi chậm thanh toán số tiền đã nhận của Công ty Thiện N là 215.957.700 đồng thì nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu có tranh chấp thì giải quyết bằng vụ kiện khác.
Tại các bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án bị đơn trình bày:
Công ty Thành V thống nhất có ký với Công ty Thiện N gồm: Biên bản sang nhượng đường rác ngày 18/08/2019 tại Chung cư Sài Gòn Mia; hợp đồng sang nhượng đường rác ngày 28/09/2019 tại Khu dân cư Trung Sơn và Phụ lục ngày 07/12/2019.
Ngày 13/01/2020, Công ty Thiện N đã có văn bản yêu cầu Công ty Thành V thanh toán lại số tiền 100.000.000 đồng và đề nghị trừ số tiền vào Hợp đồng ngày 28/09/2019 và Công ty Thành V đã đồng ý.
- Đối với hợp đồng ngày 28/09/2019 và phụ lục hợp đồng ngày 07/12/2019:
Công ty Thành V đã thực hiện đúng thỏa thuận trong Hợp đồng và Phụ lục hợp đồng, cụ thể: Ngày 28/09/2019, Công ty Thành V đã giao quyền thu gom rác cho Công ty Thiện N. Ngày 01/01/2020, Công ty Thành V đã chính thức chuyển nhượng quyền thu gom rác cho Công ty Thiện N thông qua việc Công ty Thiện N đã ký Đơn xin gia nhập hợp tác xã ngày 01/01/2020, Bản cam kết ngày 01/01/2020 và Hợp tác xã ký Hợp đồng giao khoán dịch vụ thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt số 02/HĐTVHTX-2020 ngày 01/01/2020 với Công ty Thiện N.
Công ty Thiện N đã vi phạm Hợp đồng và Phụ lục hợp đồng, cụ thể: Không thanh toán tiền đúng như thỏa thuận; Không giữ đúng cam kết khi gia nhập vào thành viên Hợp tác xã, do không đảm bảo nhân lực, phương tiện thu gom rác nên Văn bản số 222/UBND ngày 20/01/2020 của UBND xã Bình Hưng không thống nhất cho bà Nguyễn Thị N là thành viên mới của Hợp tác xã. Việc UBND xã Bình Hưng không thống nhất bà Nhân là thành viên mới là do lỗi của bà Nhân. Khi nhận Văn bản số 222, thay vì bà Nhân dừng thu gom rác để gặp bên Công ty Thành V trao đổi tìm hướng giải quyết, thì bà Nhân lại tiếp tục thu gom rác và thu tiền rác nhiều hộ dân đến hết quý 1 năm 2020 và có một số hộ thu hết năm 2020 và cũng không đóng phí quản lý 10% cho Hợp tác xã. Đại diện Công ty Thành V tìm gặp thì bà Nhân luôn tìm cách né tránh. Ngày 19/03/2020 Công ty Thành V gửi Thông báo và ngày 22/04/2020 Hợp tác xã gửi Văn bản 46/CV-HTX-2020 yêu cầu bà Nhân làm thủ tục thanh lý Hợp đồng giao khoán, nhưng tới nay bà Nhân vẫn không hợp tác thực hiện.
Do nguyên đơn đã vi phạm Hợp đồng và Phụ lục hợp đồng nên phải chịu mất tiền đặt cọc 800.000.000 đồng. Nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc bị đơn trả lại tiền cọc 800.000.000 đồng là hoàn toàn không có căn cứ.
- Đối với Biên bản sang nhượng đường rác ngày 18/08/2019:
Ngày 13/01/2020, Công ty Thiện N đã có văn bản yêu cầu Công ty Thành V thanh toán lại số tiền 100.000.000 đồng và đề nghị trừ số tiền vào Hợp đồng ngày 28/09/2019 và Công ty Thành V đã đồng ý. Do Công ty Thiện N vi phạm thỏa thuận không thanh toán Hợp đồng ngày 28/09/2019, nên Công ty Thiện N phải chịu mất số tiền 100.000.000 đồng này.
- Đối với yêu cầu Công ty Thành V trả số tiền thu phí thu gom rác của 03 tháng cuối năm 2019 là 339.000.000 đồng; tiền phạt vi phạm hợp đồng theo thỏa thuận tại khoản 6 của Hợp đồng ngày 28/09/2019 là 2.260.000.000 đồng; tiền lãi chậm thanh toán số tiền đã nhận của Công ty Thiện N là 215.957.700 đồng. Công ty Thành V không đồng ý trả.
Tại bản tự khai ngày 03/08/2023 và biên bản lấy lời khai ngày 04/08/2023 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Ủy ban xã Bình Hưng có ký Hợp tác xã hợp đồng trách nhiệm về việc thu gom và vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt số 4672/HĐ-UBND ngày 30/11/2017 và hợp đồng số 127/HĐTN.HTX-2019 ngày 02/01/2019 có thời hạn đến hết ngày 31/12/2019 với nội dung chủ yếu phụ trách thu gom rác sinh hoạt tại một phần ấp 1, 1A, 2, 2A, 3A, 4, 4B; ấp 3B, 4A, 5, 5A trên địa bàn xã Bình Hưng. Sau đó, Hợp tác xã sẽ giao lại cho 06 thành viên trực tiếp thu gom rác theo từng địa bàn cụ thể. Thành viên Hợp tác xã là các tổ rác dân lập chưa có pháp nhân, trong đó có thành viên là ông Trần Bảo Q theo đơn gia nhập hợp tác xã ngày 04/04/2018 và Quyết định số 90/QĐ HTX-2018 ngày 04/04/2018. Hợp tác xã xác định rõ chỉ quản lý các tổ rác dân lập chưa có pháp nhân, không quản lý các Công ty có pháp nhân, cụ thể: không quản lý Công ty TNHH Môi trường Thiện N và Công ty TNHH Thành V.
Căn cứ hợp đồng trách nhiệm số 127/HĐTN.HTX-2019 ngày 02/01/2019, Hợp tác xã giao cho ông Trần Bảo Q thu gom rác tại: Khu dân cư Trung Sơn, ấp 4B, KDC Him Lam, Khu biệt thự ven sông ấp 5A, số hộ đăng ký thu gom: 666 theo phụ lục danh sách thành viên hợp tác xã ngày 05/11/2019. Đến khoản tháng 01/2022 ông Trần Bảo Q không còn là thành viên Hợp tác xã.
Hợp tác xã xác định: Trong 02 hợp đồng trách nhiệm ký giữa Hợp tác xã với UBND xã Bình Hưng không có nội dung nào đồng ý cho xã viên, cụ thể là ông Trần Bảo Q được quyền sang nhượng đường rác cho cá nhân hoặc tổ chức khác. Trong danh mục quản lý thu gom rác sinh hoạt thì UBND xã Bình Hưng hoàn toàn không có giao cho Hợp tác xã phụ trách thu gom rác sinh hoạt tại Chung cư Sài Gòn MIA, tọa lạc tại Ấp 4B xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Do đó, Hợp tác xã không có ý kiến gì đối với tất cả các yêu cầu của Công ty Thiện N do không liên quan.
Tại phiên tòa hôm nay, - Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Và bổ sung ý kiến:
Thứ nhất, Công ty Thành V không có văn bản nào chứng minh có quyền thu gom rác tại Chung cư Sài Gòn Mia, bị đơn vào thu gom rác là tự phát, bị đơn không có quyền sở hữu hợp pháp. Do đó, bị đơn ký biên bản sang nhượng đường rác ngày 18/08/2019 tại Chung cư Sài Gòn Mia ký là vô hiệu, bị đơn trả lại số tiền 100.000.000 đồng là có cơ sở.
Thứ hai, Căn cứ công văn số 3237/UBND ngày 09/09/2022 của UBND huyện Bình Chánh thì UBND xã Bình Hưng ký hợp đồng trách nhiệm với Hợp tác xã, Hợp tác xã giao cho thành viên là cá nhân ông Trần Bảo Q không phải là Công ty Thành V trực tiếp thu gom rác. Bị đơn không có văn bản nào chứng minh Công ty Thành V là thành viên Hợp tác xã.
Thứ ba, theo khoản 1, 11, 13 Quyết định số 12/2019/QĐ-UBND ngày 17/05/2019 của UBND Thành phố thì chủ thể có quyền ký hợp đồng là UBND xã Bình Hưng, không phải là Hợp tác xã.
Do đó, Công ty Thành V và Công ty Thiện N ký hợp đồng ngày 28/09/2019 và phụ lục 07/12/2019 đã vi phạm ngành nghề kinh doanh có điều kiện và việc kinh doanh phải được UBND xã ký hợp đồng, hai Công ty không có thẩm quyền ký kết hợp đồng này. Vì vậy, căn cứ Điều 123, khoản 1 Điều 131 của Bộ luật dân sự 2015 nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
- Bị đơn vẫn giữ nguyên ý kiến nhưng bổ sung thêm:
Đối với yêu cầu Công ty Thành V trả số tiền thu phí thu gom rác của 03 tháng cuối năm 2019 là 339.000.000 đồng; tiền phạt vi phạm hợp đồng theo thỏa thuận tại khoản 6 của Hợp đồng ngày 28/09/2019 là 2.260.000.000 đồng; tiền lãi chậm thanh toán số tiền đã nhận của Công ty Thiện N là 215.957.700 đồng thì bị đơn đồng ý với nguyên đơn là không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu có tranh chấp thì giải quyết bằng vụ kiện khác.
Đối với yêu cầu, Tuyên Biên bản sang nhượng đường rác ngày 18/08/2019, Hợp đồng sang nhượng đường rác ngày 28/09/2019 và phụ lục hợp đồng ngày 07/12/2019 là vô hiệu; Buộc Công ty Thành V trả lại cho Công ty Thiện N số tiền sang nhượng đường rác tại Chung cư Sài Gòn Mia là 100.000.000 đồng; số tiền đặt cọc tại đường rác tại Khu dân cư Trung Sơn là 800.000.000 đồng. Tổng cộng là 900.000.000 đồng. Bị đơn không đồng ý vì những lý do sau:
+ Biên bản sang nhượng đường rác ngày 18/08/2019, hai bên thỏa thuận chấm dứt và ngày 13/01/2020 Công ty Thiện N có công văn chuyển số tiền này vào hợp đồng ngày 28/09/2019. Như vậy số tiền 100.000.000 đồng đã thanh toán cho hợp đồng ngày 28/09/2019;
+ Hợp đồng ngày 28/09/2019 không vi phạm điều cấm của pháp luật vì ông Trần Bảo Q là thành viên Hợp tác xã, ông Quốc được giao nhiệm vụ thu gom rác là ông Quốc có quyền sở hữu, ông Quốc là đại diện theo pháp luật cho Công ty Thành V nên được ký hợp đồng với Công ty Thiện N. Do đó, Hợp đồng ngày 28/09/2019 không bị vô hiệu theo quy định tại Điều 123 và Điều 129 của Bộ luật dân sự 2015. Ông Trần Bảo Q đã hoàn tất thủ tục cho bà Nguyễn Thiện Nhân tại Hợp tác xã. Nguyên đơn vi phạm thỏa thuận trong phụ lục ngày 07/12/2019 không thanh toán tiền đợt 2 mà tìm cách né tránh, trong quá trình thực hiện thu gom rác nguyên đơn đã thực hiện dịch vụ yếu kém nên UBND xã Bình Hưng có văn bản số 222/UBND ngày 20/01/2020 không thống nhất bà Nhân trở thành thành viên Hợp tác xã. Ngày 08/03/2020 Hợp tác xã có công văn số 31/CV-HTX-2020 ông Quốc tiếp tục thu gom rác tại khu Trung Sơn. Do nguyên đơn vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 phát biểu:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các qui định của Bộ luật tố tụng dân sự, xác định đúng thẩm quyền, quan hệ pháp luật tranh chấp. Những người tham gia tố tụng được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo qui định của pháp luật.
Về việc giải quyết vụ án:
Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, Điều 123 và Điều 131 của Bộ luật dân sự 2015 đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là Biên bản sang nhượng đường rác ngày 18/08/2019, Hợp đồng sang nhượng đường rác ngày 28/09/2019 và Phụ lục ngày 07/12/2019 là vô hiệu. Công ty Thành V trả lại cho Công ty Thiện N số tiền 900.000.000 đồng.
Do nguyên đơn và bị đơn cùng thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với số tiền thực thu, công sức, các chi phí liên quan việc thu gom rác trong thời gian Công ty Thiện N thực hiện thu gom rác từ 28/09/2019 đến ngày 07/03/2020 nên Tòa án không xem xét, nếu các bên có tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ kiện khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở xác định đây là vụ án dân sự về việc: “Tranh chấp hợp đồng sang nhượng quyền thu gom rác”. Do bị đơn có địa chỉ trụ sở tại Quận 10 nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 10 theo quy định tại khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
[2] Sự vắng mặt của đương sự:
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn xin vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về yêu cầu của đương sự:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Vào ngày 18/08/2019, Công ty Thiện N và Công ty Thành V ký Biên bản sang nhượng đường rác tại Chung cư Sài Gòn Mia, tọa lạc tại Ấp 4, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh với số tiền là 100.000.000 đồng.
Ngày 28/09/2019, Công ty Thiện N và Công ty Thành V ký hợp đồng sang nhượng đường rác tại Khu dân cư Trung Sơn, tọa lạc tại Ấp 4, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Giá trị hợp đồng hai bên thỏa thuận là 20 tháng tiền thực thu từ các hộ dân. Ngay sau ký hợp đồng, Công ty Thiện N đã chuyển cho Công ty Thành V số tiền đặt cọc là 800.000.000 đồng. Ngày 07/12/2019, Công ty Thiện N và Công ty Thành V ký phụ lục hợp đồng, nội dung thống nhất hợp đồng còn lại 17 tháng x 113.000.000 đ = 1.921.000.000 đồng.
Ngày 13/01/2020, Công ty Thiện N gửi Công văn cho Công ty Thành V, hai bên thống nhất hoàn trả phí sang nhượng lại 100.000.000 đồng hạn chót 20/01/2020 hoặc trừ vào Hợp đồng sang nhượng đường rác Trung Sơn.
Thực hiện hợp đồng ngày 28/09/2019, Công ty Thiện N đã thu gom rác tại khu Trung Sơn như sau: Từ 28/09/2019 đến 07/12/2019, Công ty Thiện N trực tiếp thu gom rác nhưng Công ty Thành V trực tiếp thu số tiền rác các hộ dân là 339.000.000 đồng; từ 08/12/2019 đến 07/03/2020, Công ty Thiện N trực tiếp thu gom rác và trực tiếp thu tiền của các hộ dân là 129.000.000 đồng; đến ngày 08/03/2020 thì Công ty Thành V tự lấy lại đường rác để trực tiếp thu gom rác và thu tiền rác.
Xét thấy: Theo Quy định ban hành kèm theo Quyết định số 12/2019/QĐ- UBND ngày 17/05/2019 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; Công văn số 3237/UBND ngày 09/09/2022 của UBND huyện Bình Chánh; Công văn số 5316/UBND ngày 07/12/2022 của UBND xã Bình Hưng; Quyết định số 90/QĐ HTX-2018 ngày 04/04/2018 và Phụ lục ngày 05/11/2019 của Hợp tác xã Dịch vụ Môi trường Thương mại và Nông nghiệp B thì: UBND xã Bình Hưng là cơ quan chịu trách nhiệm về tình hình chất lượng vệ sinh môi trường trên địa bàn xã Bình Hưng. Sau đó, UBND xã Bình Hưng ký hợp đồng trách nhiệm với Hợp tác xã Dịch vụ Môi trường Thương mại và Nông nghiệp B thu gom rác sinh hoạt tại một phần ấp 1, 1A, 2, 2A, 3A, 4, 4B; ấp 3B, 4A, 5, 5A trên địa bàn xã Bình Hưng. Hợp tác xã sẽ giao lại cho 06 thành viên là các tổ rác dân lập chưa có pháp nhân trực tiếp thu gom rác thông qua Hợp đồng giao khoán dịch vụ thu gom, vận chuyển chất thảy rắn sinh hoạt. Trong đó, ông Trần Quốc Bảo là thành viên chỉ được Hợp tác xã giao thu gom rác tại Khu dân cư Trung Sơn, ấp 4B, KDC Him Lam, Khu biệt thự ven sông ấp 5A.
Việc luật sư của bị đơn cho rằng: Ông Trần Bảo Q là thành viên Hợp tác xã, ông Quốc được giao nhiệm vụ thu gom rác là ông Quốc có quyền sở hữu, ông Quốc là đại diện theo pháp luật cho Công ty Thành V nên được ký hợp đồng với Công ty Thiện N là không có cơ sở và nhầm lẫm giữa tư cách cá nhân với tư cách đại diện pháp nhân tham gia giao dịch dân sự. Thực tế, từ năm 2018 đến năm 2021, ông Trần Bảo Q là cá nhân (hay gọi là tổ rác dân lập) được thu gom rác tại Khu dân cư Trung Sơn là theo sự phân công giao khoán việc của Hợp tác xã dựa trên Hợp đồng giao khoán dịch vụ thu gom, vận chuyển chất rắn sinh hoạt. Bản thân cá nhân ông Quốc và Công ty Thành V đều không có quyền ký sang nhượng lại đường rác cho cá nhân, tổ chức khác.
Mặt khác, Công ty Thành V đăng ký ngành nghề kinh doanh là thu gom rác, tuy nhiên tại phụ lục 07/12/2019 thỏa thuận Công ty Thành V thực hiện thủ tục pháp lý cho Công ty Thiện N hoặc bà Nguyễn Thị N vào Hợp tác xã và thu gom rác là không đúng với chức năng ngành nghề đăng ký kinh doanh.
Ngoài ra, trong các nội dung của Hợp đồng trách nhiệm số 127/HĐTN.HTX-2019 ngày 02/01/2019 cũng không có điều khoản nào thỏa thuận cho Hợp tác xã hoặc thành viên Hợp tác xã được quyền sang nhượng lại quyền thu gom rác cho cá nhân, tổ chức khác.
Từ những cở sở trên, việc Công ty Thiện N và Công ty Thành V tự ký kết sang nhượng đường rác tại Chung cư Sài Gòn MIA và tại Khu dân cư Trung Sơn, sau đó tự ý chuyển đổi người thực hiện thu gom rác từ 28/09/2019 đến ngày 07/03/2020 là không đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, căn cứ Điều 123 của Bộ luật dân sự 2015 thì Biên bản sang nhượng đường rác ngày 18/08/2019, Hợp đồng sang nhượng quyền thu gom rác ngày 28/09/2019 và Phụ lục ngày 07/12/2019 là vô hiệu.
[3.2] Về yêu cầu trả lại tiền sang nhượng và tiền đặt cọc:
Căn cứ Điều 131 của Bộ luật dân sự 2015 thì hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu là “…khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận…”.
Do Biên bản sang nhượng đường rác ngày 18/08/2019, Hợp đồng sang nhượng đường rác ngày 28/09/2019 và Phụ lục ngày 07/12/2019 là vô hiệu nên buộc bị đơn phải trả lại cho nguyên đơn số tiền 900.000.000 đồng.
Công ty Thiện N đã thực hiện việc thu gom rác từ 28/09/2019 đến ngày 07/03/2020 nhưng cả nguyên đơn và bị đơn cùng thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với số tiền thực thu, công sức, các chi phí liên quan thu gom rác trong thời gian này nên Hội đồng xét xử không xem xét, nếu các bên có tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ kiện khác.
[3.3] Về thời hạn thanh toán:
Do bị đơn chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nguyên đơn. Do đó, việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải thanh toán tổng số tiền 900.000.000 đồng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật là có cơ sở chấp nhận.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm bao gồm: án phí đối với việc tuyên hợp đồng vô hiệu và án phí trên số tiền phải thanh toán là 900.000.000 đồng. Hoàn lại cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 266, khoản 1 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 123 và Điều 131 của Bộ luật dân sự 2015;
Căn cứ Luật thi hành án dân sự năm 2008;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Biên bản sang nhượng đường rác tại Chung cư Sài Gòn Mia, tọa lạc tại Ấp 4, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh ký ngày 18/08/2019; Hợp đồng sang nhượng đường rác tại Khu dân cư Trung Sơn, tọa lạc tại ấp 4, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh ký ngày 28/09/2019 và Phụ lục ký ngày 07/12/2019 là vô hiệu.
- Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thành V phải thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Môi Trường Thiện N tổng số tiền là 900.000.000 đồng (Chín trăm triệu đồng).
Thanh toán ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Việc giao nhận tiền được thực hiện tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
2. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thành V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 3.000.000 đồng và 39.000.000 đồng, tổng cộng là 42.000.000 đồng (Bốn mươi hai triệu đồng) và nộp tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Hoàn lại cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Môi Trường Thiện N số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 53.149.577 đồng (Năm mươi ba triệu một trăm bốn mươi chín ngàn năm trăm bảy mươi bảy đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2021/0018234 ngày 22/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Quyền kháng cáo:
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thành V và Công ty Trách nhiệm hữu hạn Môi Trường Thiện N có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Hợp tác xã Dịch vụ Môi trường Thương mại và Nông nghiệp B có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.
5. Về quyền thi hành án:
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng sang nhượng đường rác số 56/2023/KDTM-ST
Số hiệu: | 56/2023/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 29/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về