TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 405/2023/DS-PT NGÀY 06/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN VẬT TƯ NÔNG NGHIỆP
Ngày 06 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh C xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 378/2023/TLPT-DS ngày 12 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán vật tư nông nghiệp”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 270/2023/DS-ST ngày 14 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành huyện T bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 272/2023/QĐ-PT ngày 31 tháng 10 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Quốc L1. Sinh năm: 1978 (Có mặt).
Địa chỉ: Ấp C, xã K, huyện T, tỉnh C ..
- Bị đơn: Ông Dương Văn L2. Sinh năm: 1976 (Có mặt).
Địa chỉ: Ấp Đ, xã K, huyện T, tỉnh C .. Do có kháng cáo của:
Ông Dương Văn L2. Sinh năm: 1976.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 11/5/2023 và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn ông Trần Quốc L1 trình bày:
- Ông mở cơ sở kinh doanh vật tư nông nghiệp và được cấp giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh L. Hộ kinh doanh L không có tư cách pháp nhân, không có con dấu, không xuất hóa đơn giá trị gia tăng hoặc hóa đơn bán lẻ cho khách hàng, nộp thuế dưới hình thức thuế khoán.
- Hình thức mua bán vật tư nông nghiệp tại hộ kinh doanh L được thực hiện như sau:
Việc mua bán không làm hợp đồng, hộ kinh doanh L mở sổ theo dõi việc mua bán với từng khách hàng. Cụ thể, hộ kinh doanh L làm thành 02 sổ, 01 sổ lưu tại hộ kinh doanh, 01 sổ giao cho từng khách hàng; khi khách hàng mua vật tư nông nghiệp và còn nợ tiền thì ông ghi vào sổ lưu tại hộ kinh doanh, đồng thời ghi vào sổ đã giao cho khách hàng. Sau khi khách hàng thanh toán xong, ông gạch sổ lưu tại hộ kinh doanh và gạch sổ đã giao cho khách hàng.
- Ông Dương Văn L2 là khách hàng thường xuyên mua vật tư nông nghiệp tại cơ sở L. Cơ sở cũng cung cấp sổ theo dõi việc mua hàng cho ông L2 như những khách hàng khác.
- Từ ngày 29/10/2019 đến ngày 26/11/2020, ông L2 đã mua nhiều loại vật tư nông nghiệp tại cơ sở L và còn nợ tổng số tiền 41.482.000 đồng (Tên từng loại vật tư nông nghiệp mà ông L2 mua đã được ông trình bày cụ thể tại Biên bản hoà giải ngày 02/6/2023 của Toà án nhân dân huyện T). Nay ông yêu cầu ông L2 thanh toán cho cơ sở L số tiền 41.482.000 đồng.
- Ông xác định những vật tư nông nghiệp đã bán cho ông L2 đều thuộc các lô hàng nhập trước tháng 6/2020. Còn những vật tư nông nghiệp bị Phòng Cảnh sát Kinh tế - Công an tỉnh C lấy mẫu kiểm tra được nhập vào ngày 27/12/2020, cơ sở đã cung cấp đầy đủ giấy tờ về xuất xứ hàng hoá cho Phòng Cảnh sát Kinh tế - Công an tỉnh C, hiện không còn lưu tại cơ sở L. Do đó, những vật tư nông nghiệp bán cho ông L2 không liên quan đến lô hàng mà cơ quan chức năng đang điều tra nên ông L2 phải thanh toán tiền mua hàng cho cơ sở.
- Ông xác định cơ sở chưa nhận được bất kỳ văn bản gì từ cơ quan chức năng liên quan đến việc khởi tố vụ án đối với Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu H. Khi nào cơ quan chức năng có văn bản chính thức đối với sự việc thì cơ sở L sẽ chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định của cơ quan chức năng.
Quá trình tham gia tố tụng, bị đơn ông Dương Văn L2 trình bày:
- Ông thừa nhận từ ngày 29/10/2019 đến ngày 26/11/2020, ông đã mua nhiều loại vật tư nông nghiệp tại cơ sở L và còn nợ tổng số tiền 41.482.000 đồng đúng như ông L1 trình bày.
- Việc ông không thanh toán tiền cho cơ sở L là do cơ sở L bán hai loại phân bón 30.30.0 và 30.20.5 do Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu H sản xuất cho nhiều người dân, trong đó có ông. Hai loại phân bón này đã bị Phòng Cảnh sát Kinh tế - Công an tỉnh C xác định là phân bón kém chất lượng, làm ảnh hưởng đến sản lượng lúa của ông. Trường hợp không sử dụng phân bón kém chất lượng thì sản lượng trung bình của ông đạt 50 giạ/công/01 vụ.
Do sử dụng phân bón kém chất lượng nên sản lượng vụ lúa đông - xuân từ tháng 10/2020 đến tháng 01/2021 của ông chỉ đạt 26 giạ/công/01 vụ (Ông chỉ bị thiệt hại đối với vụ lúa này).
- Vụ việc đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh C khởi tố vụ án hình sự “Sản xuất, buôn bán hàng giả là phân bón” đối với Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu H và chuyển hồ sơ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Bến Lức, tỉnh Long An điều tra từ năm 2021, đến nay vẫn chưa có kết quả. Sau khi có kết quả chính thức đối với vụ việc, ông sẽ thanh toán tiền mua hàng cho cơ sở L.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 270/2023/DS-ST ngày 14 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện T đã quyết định:
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 430, 431, 433, 440 Bộ luật Dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Quốc L1 – Chủ hộ kinh doanh L.
Buộc bị đơn ông Dương Văn L2 thanh toán cho ông Trần Quốc L1 – Chủ hộ kinh doanh L số tiền 41.482.000 đồng (Bốn mươi mốt triệu bốn trăm tám mươi hai nghìn đồng).
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 21/8/2023 ông Dương Văn L2 kháng cáo với nội dung đề nghị Hội đồng xét xem xét lại toàn bộ bản án theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C phát biểu quan điểm:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử tiến hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng và các đương sự cũng chấp hành đúng với quyền và nghĩa vụ của các đương sự được pháp luật quy định.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm, không chấp nhận kháng cáo của ông Dương Văn L2.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của những người tham gia tố tụng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm ông Dương Văn L2 vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, ông L2 xác định khi sử dụng phân bón mua của ông L1 thì ông bị thiệt hại là năng suất lúa không đạt, hiện cơ quan điều tra Công an tỉnh Long An đang xem xét, khi có kết luận chính thức ông mới thanh toán cho ông L1.
[2] Xét kháng cáo của ông Dương Văn L2 Hội đồng xét xử xét thấy:
Quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm ông L2 và ông L1 thừa nhận ông L2 đã mua nhiều loại vật tư nông nghiệp tại cơ sở L và còn nợ tổng số tiền 41.482.000 đồng đúng như ông L1 trình bày. Theo quy định tại Điều 440 Bộ luật dân sự “1. Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền theo thời hạn, địa điểm và mức tiền được quy định trong hợp đồng.
2. Trường hợp các bên chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao tài sản thì thời hạn thanh toán tiền cũng được xác định tương ứng với thời hạn giao tài sản. Nếu các bên không có thỏa thuận về thời hạn giao tài sản và thời hạn thanh toán tiền thì bên mua phải thanh toán tiền tại thời điểm nhận tài sản”. Trong quá trình tham gia tố tụng ông L2 cũng xác định sẽ trả tiền mua vật tư nông nghiệp cho cơ sở L nhưng đợi khi nào có kết quả giải quyết xong vụ án hình sự “Sản xuất, buôn bán hàng giả” đối với Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu H. Mặc dù hiện nay chưa có quyết định chính thức từ các Cơ quan tiến hành tố tụng xác định hộ kinh doanh L có liên quan đến vụ án Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu H. Tuy nhiên thực tế ông L2 có mua và nợ tiền vật tư nông nghiệp của ông L1, ông L1 bán vật tư nông nghiệp cho ông L2 trên cơ sở kinh doanh và có đăng ký kinh doanh về chất lượng của phân bón như thế nào ông L1 không biết vì thực tế ông L1 không phải là cơ sở sản xuất. Nếu cơ quan có thẩm quyền xác định được Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu H sản xuất phân bón giả liên quan đến lô hàng ông L1 bán cho ông L2 thì ông L2 vẫn có quyền yêu cầu Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu H bồi thường thiệt hại và thanh toán lại số tiền của ông đã mua vật tư nông nghiệp. Do đó bản án sơ thẩm buộc ông L2 thanh toán tiền cho ông L1 là có căn cứ.
[3] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Dương Văn L2, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Như phân tích trên đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ được chấp nhận.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Dương Văn L2 phải chịu án phí 300.000 đồng.
[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ Luật tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Dương Văn L2. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 270/2023/DS-ST ngày 14 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành huyện T.
Buộc ông Dương Văn L2 thanh toán cho ông Trần Quốc L1 – Chủ hộ kinh doanh L số tiền 41.482.000 đồng (Bốn mươi mốt triệu bốn trăm tám mươi hai nghìn đồng).
2. Án phí:
Ông Dương Văn L2 phải chịu án phí sơ thẩm số tiền 2.074.000 đồng (Hai triệu không trăm bảy mươi bốn nghìn đồng), chưa nộp.
Ông Trần Quốc L1 không phải chịu án phí. Ngày 11/5/2023, ông L1 đã dự nộp tạm ứng án phí số tiền 1.037.000 đồng (Một triệu không trăm ba mươi bảy nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0006714 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh C, được nhận lại.
Ông Dương Văn L2 phải chịu án phí phúc thẩm 300.000 đồng. Đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0007299 ngày 21/8/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T được chuyển thu.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán vật tư nông nghiệp số 405/2023/DS-PT
Số hiệu: | 405/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 06/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về