TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 194/2023/DS-PT NGÀY 25/04/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TÀI SẢN
Trong các ngày 30/3/2023 và 25/4/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 19/2023/TLPT-DS ngày 09/02/2023 về Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và bồi thường thiệt hại tài sản;
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 108/2022/DS-ST ngày 24 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện T bị kháng cáo;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 102/2023/QĐ-PT ngày 22 tháng 02 năm 2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
Hộ kinh doanh N (HKD N);
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn V N, sinh năm 1971;
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn V N là: Bà Trần Thị K (Nương), sinh năm 1975; Cùng địa chỉ: Số nhà 154, ấp Tân Bình Hạ, xã Tân Hòa, huyện T, tỉnh Đ (Theo văn bản ủy quyền ngày 30/5/2022).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Hộ kinh doanh N là: Luật sư Nguyễn V D – V phòng Luật sư Chí Công chi nhánh T, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ.
- Bị đơn:
1. Ngô V H (Bậm), sinh năm 1982;
2. Võ V M (Th), sinh năm 1976;
Người đại diện theo ủy quyền của anh Ngô V H là: Anh Võ V M, sinh năm 1976. Cùng địa chỉ: Ấp Tân Bình Hạ, xã Tân Hòa, huyện T, tỉnh Đ (Theo văn bản ủy quyền ngày 29/3/2023).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh H và anh M là: Luật sư Mai T – Công ty Luật TNHH MTV Th và Cộng Sự, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Công ty TNHH S Việt Nam;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Thanh V, chức vụ: Tổng giám đốc;
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Đào Thị N, chức vụ: Trưởng phòng Pháp chế của Công ty TNHH S Việt Nam.
Địa chỉ: Khu Công nghiệp B, Số 16 đường 3A, Long Bình Tân, thàn h phố B, tỉnh Đ (Theo văn bản ủy quyền ngày 08/8/2022, xin vắng mặt).
- Người kháng cáo: Ông Ngô V H và ông Võ V M là Bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn ông Nguyễn V N trình bày:
+ Ông Ngô V H (Bậm) có mua thuốc bảo vệ thực vật của Hộ kinh doanh N nhiều lần từ ngày 29/7/2020al đến ngày 02/9/2020al, còn nợ số tiền tổng cộng là 40.435.000đ. Trong quá trình mua bán hai bên thỏa thuận thời gian trả tiền là khi xong vụ Thu Đông năm 2020, nhưng đến nay ông H không trả lại số tiền nợ mua thuốc nêu trên. Ông H khởi kiện yêu cầu Hộ kinh doanh N bồi thường thiệt hại tài sản do thuốc Amista 250SC của công ty S sản xuất không đảm bảo chất lượng với số tiền là 225.000.000đ.
+ Ông Võ V M (Th) có mua thuốc bảo vệ thực vật của Hộ kinh doanh N nhiều lần từ ngày 09/6/2020al đến ngày 01/9/2020al, với số tiền nợ là 55.776.000 đồng. Đến nay ông M khởi kiện yêu cầu Hộ kinh doanh N bồi thường thiệt hại tài sản do thuốc Amista 250SC của Công ty S sản xuất không đảm bảo chất lượng với số tiền là 200.000.000đ.
Ông L thừa nhận có bán thuốc hiệu Amistar 250SC cho ông H và ông M. Tuy nhiên ông H, ông M tự ý pha chế thuốc và thuê người xịt bông xoài. Thời gian sau thì ông H, ông M có đến cửa hàng báo việc bông xoài bị hư và yêu cầu cửa hàng đến xem, nhưng khi ông L và đại diện nhân viên công ty S đến thì ông H, ông M không cho vào vườn và cũng không có lập biên bản. Ông H và ông M đến cửa hàng gây rối nên ông L thống nhất hỗ trợ thuốc cho ông M, ông H xịt xoài là 01 cử thuốc kích mỗi người là 2.500.000đ thời điểm thiệt hại xảy ra. Đến nay thì không thống nhất hổ trợ nữa. Nay yêu cầu ông Ngô V H trả số tiền mua thuốc bảo vệ thực vật còn nợ là 40.435.000đ và yêu cầu ông Võ V M trả số tiền mua thuốc bảo vệ thực vật còn nợ là 55.776.000đ và yêu cầu ông M, ông H trả lãi trên số tiền nợ gốc với lãi suất 10%/năm, tính từ ngày 16/3/2021DL đến khi xét xử. Đối với việc ông M, ông H khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại số tiền 200.000.000đ cho ông M và số tiền là 225.000.000đ cho ông H, ông L không thống nhất, do bán thuốc của Công ty S đạt chất lượng đảm bảo.
- Bị đơn:
+ Anh Ngô V H trình bày:
Ông có trồng xoài và có đến Hộ kinh doanh N mua thuốc bảo vệ thực vật và có nợ số tiền 40.435.000đ, khi mua chỉ nhận hóa đơn, không có thỏa thuận trả lãi. Ông có canh tác diện tích 25.000m2 vườn xoài, tại ấp Tân Bình Hạ, ấp Tân Dinh, xã Tân Hòa. Vào ngày 13/10/2020 ông mua 20 chai thuốc, giá 162.000đ/chai, hiệu Amista của Công ty S sản xuất do Hộ kinh doanh N bán, về xịt vườn xoài đang ra bông lấy nhụy của ông, qua ngày hôm sau bông xoài bị đen, không đậu quả nên ông gọi điện thoại cho bà Nương (vợ ông L), bà Nương kêu mua thêm 20 chai về để xịt tiếp, ngày 18/10/2020 (dl) ông mua thêm 20 chai thuốc về xịt, đến ngày 21/10/2020 ông thấy bông xoài vẫn bị hư. Ngày 22/10/2020 ông gọi ông Nguyễn Phúc Tần nhân viên công ty S lên vườn xoài kiểm tra, ông Tần khẳng định thuốc ông mua nêu trên là giả. Ngày 23/10/2020 ông L đi cùng một người thanh niên giới thiệu là nhân viên S đến vườn xoài của ông xem lại, ngày 26-27/10/2020 bà K thỏa thuận bồi thường cho ông thuốc kích xoài, không nói số tiền cụ thể, chỉ nói ông mua đem hóa đơn về bà K sẽ trả lại tiền, đến nay hộ kinh doanh N không thỏa thuận bồi thường thiệt hại cho ông.
Nay ông thống nhất trả cho Hộ kinh doanh N số tiền còn nợ là 40.435.000đ, không thống nhất trả lãi do không có thỏa thuận lãi suất. Yêu cầu hộ kinh doanh N bồi thường 25 công xoài của ông H bị hư bông x 9.000.000đ/công = 225.000.000đ.
+ Anh Võ V M trình bày:
Ông có trồng xoài và có đến Hộ kinh doanh N mua thuốc bảo vệ thực vật, có nợ tiền nhưng đã trả nhiều lần, hiện nay chỉ còn nợ số tiền 30.003.000đ. Ông mua thuốc hiệu Amista của Công ty S sản xuất do Hộ kinh doanh N bán không đạt chất lượng, gồm các hóa đơn ngày 27/8/2020 mua 20 chai, ngày 02/9/2020 mua 20 chai, tổng cộng là 40 chai để xịt xoài đang ra bông lấy nhụy, gây thiệt bông xoài vườn xoài của ông, diện tích là 20 công x 10.000.000đ/công là 200.000.000đ.
Nay ông không thống nhất trả lại số tiền nợ là 55.776.000đ cho Hộ kinh doanh N, thống nhất trả nợ số tiền theo hóa đơn là 25.022.000đ, không đồng ý trả lãi do việc mua bán không có thỏa thuận trả lãi. Yêu cầu Hộ kinh doanh N bồi thường thiệt hại số tiền chi phí đầu tư vườn xoài bị thiệt hại là 200.000.000đ.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH S Việt Nam trình bày:
Amistar 250SC là một trong các sản phẩm thuốc bảo vệ thực vật được sản xuất và phân phối bởi S. Trong các tài liệu liên quan đến yêu cầu của ông Nguyễn V M và ông Ngô V H mà Công ty nhận được, ông M và ông H khởi kiện Hộ kinh doanh N vì cho rằng cửa hàng này đã bán thuốc BVTV giả thuốc Amista 250SC của S, chứ không phải do thuốc Amistar 250SC của S không đảm bảo chất lượng. Các ông M và ông H không cho rằng thuốc BVTV Amistar 250SC của S không đảm bảo chất lượng, cũng như không cung cấp được bất kỳ bằng chứng nào để chứng minh rằng thuốc BVTV này của S không đảm bảo chất lượng. Chính vì lẽ trên, Công ty không có trách nhiệm bồi thường cho ông M, ông H bởi những thiệt hại mà các nguyên đơn này phải chịu.
- Người làm chứng:
+ Võ V Ngưng, ông Võ V Dng và ông Võ V Lam trình bày:
Không trực tiếp chứng kiến ông H, ông M mua thuốc bảo vệ thực vật và cũng không trực tiếp nhìn thấy vườn xoài của ông M, ông H bị thiệt hại. Sau đó ông có đi ngang vườn xoài thì thấy bông xoài bị hư, ông nghe ông M, ông H nói mua thuốc hiệu Amista từ cửa hàng của ông N gây hư bông xoài.
+ Ông Nguyễn Thanh T, ông Nguyễn V V trình bày:
Thời gian vào khoảng năm 2020, ông M thuê ông T và ông V xịt thuốc vườn xoài, thuốc do ông M mua, ông tự pha thuốc xịt làm cho bông xoài của ông M bị hư, diện tích vườn xoài thì không biết.
+ Ông Mai V L trình bày:
Là người làm thuê trực tiếp trên đất của ông H, vào cuối tháng 8 đầu tháng 9 năm 2020(al), ông H có kêu ông xịt thuốc dưỡng bông trong đó có loại Amista 250SC mà ông H mua của Hộ kinh doanh N về xịt bị hư bông do thuốc Amista không đảm bảo chất lượng.
+ Ông Dương V Khanh trình bày:
Là người có vườn xoài cạnh vườn của ông H, vào đầu tháng 9/2020 vườn xoài của ông H hư bông toàn bộ, lý do hư bông thì nghe nói lại là do ông H xịt thuốc Amista mua của HKD N không đảm bảo chất lượng.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 108/2022/DS-ST ngày 24/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện T đã xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Hộ Kinh doanh N đối với ông Ngô V H và ông Võ V M.
Buộc ông Ngô V H có trách nhiệm cá nhân trả lại cho Hộ kinh doanh N số tiền còn nợ 46.486.000đ (Bốn mươi sáu triệu, bốn trăm tám mươi sáu nghìn đồng).
Buộc ông Võ V M có trách nhiệm cá nhân trả lại cho Hộ kinh doanh N số tiền còn nợ 64.263.000đ (Sáu mươi bốn triệu, hai trăm sáu mươi ba nghìn đồng).
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện phản tố của bị đơn Ngô V H và Võ V M về việc yêu cầu Hộ kinh doanh N bồi thường thiệt hại tài sản.
Buộc Hộ kinh doanh N bồi thường cho ông Ngô V H số tiền 7.500.000đ (Bảy triệu, năm trăm nghìn đồng).
Buộc Hộ kinh doanh N bồi thường cho ông Võ V M số tiền 6.000.000đ (Sáu triệu đồng).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng khác, quyền và thời hạn kháng cáo, quyền, nghĩa vụ và thời hiệu thi hành án của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 07/10/2022 anh Võ V M và anh Ngô V H làm đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm;
+ Anh Ngô V H yêu cầu Hộ kinh doanh N phải bồi thường thiệt hại chi phí đầu tư đến khi xoài ra bông là 9.000.000 đồng/công x 25 công = 225.000.000 đồng.
+ Anh Võ V M chỉ đồng ý trả số tiền mua vật tư còn thiếu cho Hộ kinh doanh N với số tiền là 25.022.000 đồng và yêu cầu Hộ kinh doanh N bồi thường thiệt hại chi phí đầu tư đến khi xoài ra bông là 10.000.000 đồng/công x 20 công = 200.000.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của mình, không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Vị Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Nguyên đơn phát biểu ý kiến và đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Bị đơn, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Vị Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các Bị đơn phát biểu ý kiến và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các Bị đơn, sửa Bản án sơ thẩm.
Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ phát biểu ý kiến Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật ở giai đoạn phúc thẩm:
+ Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa đều chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của anh Ngô V H và anh Võ V M về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản; Chấp nhận một phần kháng cáo của anh Võ V M đối với tiền nợ thuốc bảo vệ thực vật ngày 28/9/2020, số tiền 3.259.000đ; Sửa Bản án sơ thẩm theo hướng buộc anh M trả cho Hộ kinh doanh N số tiền 52.517.000đ và điều chỉnh lãi suất, án phí theo quy định.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Xét việc anh Võ V M kháng cáo chỉ đồng ý trả số tiền mua vật tư nông nghiệp còn nợ của HKD N là 25.022.000 đồng cho thấy:
Căn cứ văn bản ý kiến ngày 07/12/2021 của anh M thừa nhận có mua vật tư nông nghiệp của HKD N theo 19 hóa đơn mà ông L cung cấp cho Tòa án. Còn một hóa đơn ngày 28/9/2020 với số tiền 3.259.000đ anh không thừa nhận có mua và còn nợ. Anh cho rằng đã trả cho ông L một phần và chỉ còn nợ số tiền theo 09 hóa đơn trong số 19 hóa đơn nêu trên là 27.663.000đ và 01 hóa đơn ngày 30/8/2020 với số tiền là 2.337.000đ nhưng ông L không khởi kiện yêu cầu trả nợ đối với hóa đơn này, tổng cộng là 30.000.000đ.
Vì vậy, anh M chỉ đồng ý trả 25.022.000đ cho HKD N là không phù hợp. Do anh không cung cấp được tài liệu chứng cứ, chứng minh là đã trả nợ cho HKD N như lời trình bày của anh và ông L cũng không thừa nhận việc anh M đã trả được số tiền nợ 33.099.000đ. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm buộc anh M trả cho HKD N số tiền nợ gốc và lãi 64.263.000đ là có căn cứ một phần. Bởi vì, đối với hóa đơn ngày 28/9/2020 với số tiền 3.259.000đ anh M không thừa nhận có mua vật tư nông nghiệp của HKD N và ông L cũng không có chứng cứ chứng minh anh M còn nợ 3.259.000đ theo hóa đơn ngày 28/9/2020. Do đó, không có căn cứ để buộc anh M phải trả cho HKD N 3.259.000đ theo hóa đơn ngày 28/9/2020. Vì vậy, chấp nhận một phần kháng cáo của anh M đối với số tiền này. Anh M chỉ phải trả cho HKD N tiền nợ mua vật tư nông nghiệp và tiền lãi tính từ ngày khởi kiện 16/3/2021 đến ngày xét xử sơ thẩm 24/9/2022 là 18,3 tháng theo mức lãi suất 0,83%/tháng là: Tổng số tiền theo hóa đơn mà HKD N yêu cầu là 55.776.000đ – 3.259.000đ = 52.517.000đ; 52.517.000đ x 0,83% x 18,3 tháng = 7.976.000đ; 52.517.000đ + 7.976.000đ = 60.493.000đ.
[2] Xét kháng cáo của anh Ngô V H yêu cầu HKD N bồi thường thiệt hại với số tiền là 225.000.000đ và anh Võ V M yêu cầu HKD N bồi thường thiệt hại với số 200.000.000đ, cho thấy:
Anh H và anh M đều trình bày năm 2020, có mua thuốc Amista của HKD N về xịt xoài làm cho bông xoài bị hư. Anh M thiệt hại diện tích xoài là 20 công, anh H thiệt hại diện tích xoài là 25 công.
Xét thấy, việc xoài của anh H và anh M bị thiệt hại là có thật, nhưng không có tài liệu chứng cứ chứng minh là thuốc bảo vệ thực vật Amista do HKD N bán cho anh H và anh M gây ra thiệt hại. Và cũng chưa có cơ quan chuyên môn có thẩm quyền kết luận thiệt hại tài sản của anh M và anh H là do thuốc Amsista của HKD N bán cho anh H và anh M.
Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của anh M và anh H về việc yêu cầu HKD N bồi thường thiệt hại.
[3] Xét ý kiến đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ là có căn cứ, phù hợp với với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[4] Xét ý kiến đề nghị của vị Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Nguyên đơn chưa phù hợp nên không chấp nhận.
[5] Xét ý kiến đề nghị của vị Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Bị đơn là có căn cứ một phần như nhận định của Hội đồng xét xử đối với kháng cáo của anh M nên được chấp nhận một phần.
Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của anh M, không chấp nhận kháng cáo của anh H, sửa một phần Bản án sơ thẩm.
Do chấp nhận một phần kháng cáo của anh M nên anh M không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Anh H phải chịu 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Phần của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 147, Điều 148, Điều 91, Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 430, Điều 440, Điều 468, Điều 584, Điều 585 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
T xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của anh Ngô V H.
2. Chấp nhận một phần kháng cáo của anh Võ V M.
3. Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 108/2022/DS-ST ngày 24/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện T.
4. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Hộ Kinh doanh N đối với anh Ngô V H và anh Võ V M.
5. Buộc anh Ngô V H có nghĩa vụ trả cho Hộ kinh doanh N số tiền còn nợ là 46.486.000đ (Bốn mươi sáu triệu bốn trăm tám mươi sáu nghìn đồng).
6. Buộc anh Võ V M có nghĩa vụ trả cho Hộ kinh doanh N số tiền còn nợ là 60.493.000đ (Sáu mươi triệu bốn trăm chín mươi ba nghìn đồng).
7. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện phản tố của anh Ngô V H và anh Võ V M về việc yêu cầu Hộ kinh doanh N bồi thường thiệt hại về tài sản.
8. Buộc Hộ kinh doanh N phải bồi thường thiệt hại cho anh Ngô V H số tiền 7.500.000đ (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng).
9. Buộc Hộ kinh doanh N phải bồi thường thiệt hại cho anh Võ V M số tiền 6.000.000đ (Sáu triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
9. Về án phí:
+ Anh Ngô V H phải chịu 13.199.000đ án phí dân sự sơ thẩm, 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm và được trừ vào 5.625.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0016629 ngày 29/6/2021 và 300.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai số 0010415 ngày 07/10/2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện T. Anh H còn phải nộp thêm là 7.574.000đ.
+ Anh Võ V M phải chịu 12.724.000đ án phí dân sự sơ thẩm và được trừ vào 5.000.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0016628 ngày 29/6/2021 và 300.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai số 0010414 ngày 07/10/2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện T. Anh M còn phải nộp thêm là 7.424.000đ.
+ Hộ kinh doanh N phải chịu 838.000đ án phí dân sự sơ thẩm và được trừ vào 1.614.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0014423 ngày 15/4/2021 và 1.130.000đ theo biên lai số 0014422 ngày 15/4/2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện T. Hộ Kinh doanh N được nhận lại số tiền 1.906.000đ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và bồi thường thiệt hại tài sản số 194/2023/DS-PT
Số hiệu: | 194/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 25/04/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về