Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 431/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 431/2023/DS-PT NGÀY 15/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 205/2023/TLPT-DS ngày 14/7/2023 về việc tranh chấp “Hợp đồng mua bán tài sản

Do bản án dân sự sơ thẩm số 126/2023/DS-ST ngày 22/5/2023 của Toà án nhân dân huyện GCĐ, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 689/2023/QĐ-PT ngày 24/7/2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Trương Thị C, sinh năm 1960 (có mặt);

Địa chi: ấp Hiệp Tr, xã Bình Ng, huyện GCĐ, tỉnh Tiền Giang

- Bị đơn: Trần Văn Đ, sinh năm 1958 (có mặt);

Địa chỉ: ấp Hiệp Tr, xã Bình Ng, huyện GCĐ, tỉnh Tiền Giang

- Người kháng cáo: Nguyên đơn Trương Thị C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo bản án sơ thẩm, nguyên đơn bà Trương Thị C trình bày:

Ngày 26/7/2022 âm lịch, bà và ông Đ tiến hành cân lúa của ông Đ được 6.829kg lúa với giá là 7.200 đồng/kg, thành tiền là 49.168.000 đồng. Sau khi cân xong, H bên về nhà kiểm tra lại, 03 ngày sau ông Đ có đến nhà bà C để đối chiếu lại sổ cân lúa để tính tiền. Sau khi đối chiếu sổ khớp nhau thì bà C lấy tiền trả ông Đ và ông Đ kiểm đếm tiền trước mặt bà C đầy đủ rồi ông Đ về nhà chứ không có ký nhận gì hết, cũng không có ai chứng kiến. Tổng cộng số tiền mà bà C đưa cho ông Đ (sau khi trừ tiền thuê người vác lúa cân là 322.000 đồng) là 48.846.000 đồng. Việc ông Đ mượn trước số tiền 13.000.000 đồng có ghi vào theo dõi riêng của bà chứ không có ký nhận gì hết. Trong quá trình đối chiếu trả tiền, bà C có nói là trừ 13.000.000 đồng tiền mượn, tuy nhiên khi bấm máy lại không trừ số tiền mượn nêu trên nên khi đưa tiền cho ông Đ là số tiền 48.846.000 đồng. Nay bà C yêu cầu ông Đ trả lại số tiền cho mượn là 13.000.000 đồng, không yêu cầu trả lãi, yêu cầu trả một lần khi án có hiệu lực pháp luật.

* Bị đơn ông Trần Văn Đ trình bày:

Ông thống nhất với lời trình bày của bà C về số lúa đã cân, giá tiền lúa, số tiền lúa bán được, số tiền mướn người cân lúa và số tiền mượn trước. Tuy nhiên khi đối chiếu sổ thì bà C đã bấm máy lấy tiền lúa trừ đi tiền mướn người cân lúa, trừ tiền mượn trước của ông Đ là 13.000.000 đồng, nên bà C chỉ đưa cho ông số tiền còn lại là 35.846.000 đồng, sau khi kiểm đếm đủ tiền trước sự chứng kiến của bà C thì ông Đ đi về nhà, chứ không có ký nhận và cũng không có ai khác chứng kiến. Nay bà C khởi kiện yêu cầu ông Đ trả số tiền 13.000.000 đồng thì ông Đ không đồng ý, vì khi trả tiền lúa bà C đã trừ tiền mượn vô tiền cân lúa của ông rồi.

* Bản án dân sự sơ thẩm số 126/2022/DS-ST ngày 22/5/2023 của Toà án nhân dân huyện GCĐ, tỉnh Tiền Giang, đã căn cứ vào Điều 430, Điều 440 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 35, Điều 39, khoản 1 Điều 228, Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 26 và Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị C buộc ông Trần Văn Đ trả lại số tiền 13.000.000 đồng.

- Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự.

* Ngày 25/5/2023, bà Trương Thị C có đơn kháng cáo yêu cầu: xem xét lại bản án sơ thẩm, buộc ông Đ trả cho bà số tiền 13.000.000 đồng.

* Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự trình bày:

- Bà Trương Thị C vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

- Ông Trần Văn Đ không đồng ý theo yêu cầu kháng cáo của bà C, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang phát biểu:

+ Về tố tụng: Kể từ ngày thụ lý vụ án đến nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng tuân thủ đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung vụ án: Bà C kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì mới. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà C, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên và những quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét xác định mối quan hệ tranh chấp, thẩm quyền và áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án đúng quy định pháp luật dân sự và tố tụng dân sự trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Trương Thị C; Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bà Trương Thị C và ông Trần Văn Đ tự nguyện thỏa thuận mua bán lúa. Bà C và ông Đ thống nhất: Bà C đã đưa cho ông Đ ứng trước tiền bán lúa số tiền 13.000.000 đồng, H bên thỏa thuận khi nào thanh toán tiền lúa sẽ trừ lại.

Bà C cho rằng: Sau khi hoàn thành các bước cân đong ghi số lúa, bà C và ông Đ tiến hành đối chiếu sổ, thanh toán tiền mua bán thì bà quên không trừ tiền ứng trước 13.000.000 đồng, cho nên đã đưa cho ông Đ tổng số tiền 48.846.000 đồng. Nhưng ông Đ khẳng định bà C đã trừ tiền ứng trước hết rồi nên bà C mới đưa cho ông tổng cộng số tiền là 35.846.000 đồng.

Xét thấy: Tại Tòa án cấp phúc thẩm, bà C nộp các bản tường trình, xác nhận của người làm chứng gồm: Sa Văn K, Trương Thị Kiều O, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn B, Lê Văn Thuận, Bùi Ngọc H, Bùi Thanh  T, Huỳnh Thị Trúc L, Bùi Minh H, Trần Hồng P, Nguyễn Thanh  T, Lê Hoàng S, Nguyễn Văn H, Trần Văn Đ, Nguyễn Văn L. Tuy nhiên, nội dung trong các bản tường trình của những người nêu trên chỉ xác nhận việc bà C và họ mua bán, giao nhận tiền không có lập văn bản, ký tên ghi rõ số tiền giao nhận với nhau; không có nội dung thể hiện họ có trực tiếp chứng kiến việc kết toán sổ sách và giao nhận tiền giữa bà C với ông Đ, do đó nội dung xác nhận không liên quan đến tranh chấp giữa bà C với ông Đ, nên không có cở sở xem xét theo yêu cầu trình bày của bà C.

Ngoài các tài liệu, chứng cứ nêu trên, bà C không có cung cấp được tài liệu chứng cứ gì khác chứng minh đã đưa cho ông Đ số tiền 48.846.000 đồng. Bà C trình bày: Nhà bà có lấp camera, ngay hôm đó bà có trích xuất camera thấy ông Đ nhận tiền xong rồi về liền, nhưng camera không có tiếng nói và bà không biết để lưu lại, nên đến nay không thể cung cấp cho Tòa án được. Như vậy, cho dù có hình ảnh trích xuất từ camera nhà bà C đến nay vẫn còn thì cũng không có gì chứng minh ông Đ nhận số tiền 48.846.000 đồng do bà C giao. Ông Đ không thừa nhận có nhận số tiền này. Hơn nữa, bà C cũng thừa nhận ngay sau đó bà C đã đến nhà ông Đ để đếm lại tiền thì tại nhà ông Đ không có số tiền 48.846.000 đồng.

Do đó, không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà C; bản án sơ thẩm đã xử là có căn cứ; Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Ý kiến của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Về án phí dân sự phúc thẩm:

Do yêu cầu kháng cáo của bà Trương Thị C không được chấp nhận nên bà C phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Tuy nhiên, bà C có đơn yêu cầu miễn nộp tạm ứng án phí, án phí (Bút lục 11) do là người cao tuổi. Căn cứ vào Điều 2 Luật Người cao tuổi và Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Hội đồng xét xử quyết định miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm cho bà C.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào Điều 430, Điều 440 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 35, Điều 39, khoản 1 Điều 228, Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 26 và Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Trương Thị C.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 126/2023/DS-ST ngày 22/5/2023 của Toà án nhân dân huyện GCĐ, tỉnh Tiền Giang.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị C về việc buộc ông Trần Văn Đ trả lại số tiền 13.000.000 đồng.

2. Về án phí:

2.1. Án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Trương Thị C phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm. Tuy nhiên, bà C thuộc trường hợp người cao tuổi nên được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm.

2.2. Án phí dân sự phúc thẩm:

Miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm cho bà Trương Thị C. Bà C không có nộp tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm.

3. Những quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

- Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 431/2023/DS-PT

Số hiệu:431/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về