Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 38/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 38/2022/DS-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Trong ngày 14 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 179/2021/TLST-DS, ngày 01 tháng 7 năm 2021 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 105/2021/QĐXXST-DS ngày 31 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 08/2022/QĐST-DS ngày 25 tháng 01 năm 2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ông Trần Đại H, sinh năm 1973.

Địa chỉ: Số nhà 034 khóm Tr, phường Kh, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện của nguyên đơn: Chị Trần Diễm M, sinh năm 1996; là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Số nhà 034 khóm Tr, phường Kh, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.

* Bị đơn: Bà Trần Thị G (G), sinh năm 1951 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Nhà không số, khóm L, phường Kh, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 15/6/2021 của nguyên đơn và đơn xin giải quyết vắng mặt của người đại diện do nguyên đơn ủy quyền chị Trần Diễm M trình bày:

Vào năm 2016, ông Trần Đại H có bán thức ăn, thuốc và hóa chất để nuôi Tôm nhãn hiệu V cho bà Trần Thị G (G). Hai bên có ký hợp đồng bằng văn bản nhưng do qua nhiều năm nên hợp đồng đã thất lạc. Theo hợp đồng, ông H có nghĩa vụ cung cấp các loại thức ăn, thuốc thủy sản cho bà G theo đơn đặt hàng của bà G. đơn giá được hai bên thỏa thuận trên từng loại hàng hóa theo các hóa đơn và sổ giao nhận hàng. Hàng hóa được giao tại cửa hàng của ông H, bà G hoặc người nhà đến lấy hàng tại cửa hàng và ký vào sổ giao nhận hàng hóa. Đến cuối vụ thu hoạch thì bà G phải thanh toán dứt điểm công nợ của vụ đó, trường hợp nuôi tôm thua lỗ vẫn phải thanh toán công nợ cho ông H thì mới được đặt hàng cho vụ tiếp theo, nếu bà G không thanh toán thì tùy từng trường hợp ông H có quyền ngưng cung cấp hàng hóa; hàng tháng, hai bên có đối chiếu công nợ.

Quá trình mua bán diễn ra từ ngày 22/9/2016 cho đến ngày 09/4/2019, ông H đã thực hiện đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận và bà G không có ý kiến phản đối nào đối với số lượng, chất lượng hàng hóa được nhận nhưng đến hạn thanh toán thì bà G không thanh toán cho ông H. Hiện nay, bà G còn nợ của ông H là 70.991.000đ (bảy mươi triệu chín trăm chín mươi mốt nghìn đồng), ông H đã nhiều lần yêu cầu thanh toán nhưng bà G vẫn không thực hiện.

Nay ông Trần Đại H yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Trần Thị G phải thanh toán cho ông H một lần toàn bộ số nợ là 70.991.000đ (bảy mươi triệu chín trăm chín mươi mốt nghìn đồng).

Bị đơn Trần Thị G vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình giải quyết vụ án bà G trình bày: Đúng là năm 2016, bà G có mua bán thức ăn, thuốc và hóa chất để nuôi Tôm nhãn hiệu V của ông Trần Đại H. Có ký hợp đồng bằng văn bản nhưng do qua nhiều năm nên hợp đồng đã thất lạc. Bà G đã mua thức ăn của ông H nhiều năm, trước đây nuôi Tôm cũng trúng nên mỗi năm có trả cho đến sau này nuôi Tôm bị thất do đó mới thiếu nợ của ông H.

Hiện nay, bà G còn nợ của ông H là 70.991.000đ (bảy mươi triệu chín trăm chín mươi mốt nghìn đồng), nhưng do mấy năm nay nuôi Tôm thua lỗ nên bà G không có khả năng, bà G xin gia hạn, trước Tết năm 2022 sẽ trả trước 2.000.000đ (hai triệu đồng), số nợ còn lại xin qua Tết, bà G nuôi Tôm sẽ thanh toán số tiền còn lại cho đến khi dứt nợ.

Chứng cứ Tòa án thu thập được là: Biên bản lấy lời khai của bị đơn.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Qua thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký phiên tòa cũng như Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, chứng cứ được thu thập đầy đủ đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các đương sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật, riêng bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật, vắng mặt không có lý do tại phiên tòa sơ thẩm. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Thẩm phán đã xác định đúng quan hệ tranh chấp. Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn Trần Thị G có trách nhiệm thanh toán cho ông Trần Đại H số nợ mua thức ăn nuôi Tôm còn thiếu là 70.991.000đ (bảy mươi triệu chín trăm chín mươi mốt nghìn đồng). Quyết định về nghĩa vụ chịu án phí đối với đương sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1.1] Về tố tụng: Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy: Xét hợp đồng mua bán tài sản được giao kết giữa nguyên đơn là ông Trần Đại H và bị đơn là bà Trần Thị G là thực tế và là sự tự nguyện thỏa thuận giữa các bên, đây là giao dịch dân sự được quy định tại Điều 430 Bộ luật dân sự năm 2015. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn Trần Thị G đã được triệu tập hợp lệ hai lần tham gia phiên tòa, đều vắng mặt không có lý do nên phải chịu hậu quả pháp lý về việc vắng mặt của mình. Tại đơn xin vắng mặt, người đại diện theo ủy của nguyên đơn có trình bày rõ các yêu cầu của mình và Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án vắng mặt người đại diện theo ủy của nguyên đơn và bị đơn.

[1.2] Việc tham gia phiên tòa của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu: Trong vụ án này, Tòa án có tiến hành thu thập chứng cứ nên Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu tham gia phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung giải quyết:

Hai bên đã thực hiện việc mua bán tài sản như đã thỏa thuận, thể hiện theo lời trình bày của nguyên đơn và thừa nhận của bị đơn trong quá trình giải quyết vụ án. Cụ thể là ông H bán thức ăn và thuốc phục vụ cho việc nuôi Tôm cho bà G và bà G còn nợ của ông H là 70.991.000đ (bảy mươi triệu chín trăm chín mươi mốt nghìn đồng), nhưng không thống nhất được thời gian thanh toán và phương thức thanh toán. Từ các căn cứ nêu trên, đối chiếu với quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự, có cơ sở khách quan để kết luận việc giao dịch dân sự giữa các bên đối với việc mua bán tài sản và bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền 70.991.000đ (bảy mươi triệu chín trăm chín mươi mốt nghìn đồng) là có căn cứ. Tại đơn xin giải quyết vắng mặt, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu bị đơn Trần Thị G thanh toán số tiền nêu trên cho nguyên đơn là có căn cứ nên được chấp nhận.

Xét ý kiến của bị đơn xin gia hạn khi nào nuôi Tôm trúng sẽ thanh toán khi dứt số nợ nêu trên nhưng không được nguyên đơn đồng ý nên không có căn cứ chấp nhận ý kiến của bị đơn.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và ông H có đơn yêu cầu thi hành án, bà Trần Thị G còn phải trả lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

[3] Về án phí sơ thẩm: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, bà G phải chịu án phí có giá ngạch tương ứng với nghĩa vụ thanh toán quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa XIV. Tuy nhiên, bà G là người cao tuổi, có đơn xin miễn án phí thuộc trường hợp miễn án phí được quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa XIV nên không phải nộp án phí.

[4] Toàn bộ quan điểm, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu là có căn cứ pháp lý và cơ sở thực tiễn như đã nhận định ở trên, Hội đồng xét xử cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đã nêu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 92, khoản 1 và khoản 2 Điều 143, khoản 1 Điều 144, khoản 1 Điều 147, điểm a và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 430, Điều 440, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 26, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa XIV.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Đại H đối với bị đơn bà Trần Thị G, về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”.

Buộc bà Trần Thị G có nghĩa vụ thanh toán cho ông Trần Đại H số tiền nợ là 70.991.000đ (bảy mươi triệu chín trăm chín mươi mốt nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và ông H có đơn yêu cầu thi hành án, bà G phải trả lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Thị G phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 3.549.550đ (ba triệu năm trăm bốn mươi chín nghìn năm trăm năm mươi đồng). Nhưng do bà Trần Thị G là người cao tuổi, có đơn xin miễn án phí nên bà G không phải nộp tiền án phí.

- Ông Trần Đại H không phải chịu án phí; hoàn trả cho ông H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.774.775đ (một triệu bảy trăm bảy mươi bốn nghìn bảy trăm bảy mươi lăm đồng) theo Biên lai thu số 0008785 ngày 01/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu.

3. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

319
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 38/2022/DS-ST

Số hiệu:38/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về