Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 340/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 340/2022/DS-PT NGÀY 28/12/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 193/2022/TLPT-DS ngày 03 tháng 10 năm 2022 về tranh chấp “Hợp đồng mua bán tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 219/2022/DS-ST ngày 16 tháng 06 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 253/2022/QĐ-PT ngày 18 tháng 10 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Lê Thị Bạch Th, sinh năm 1961 (Vắng mặt).

Địa chỉ: ấp HLT , xã Hòa Định, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Chị Hồ Thị N, sinh năm 1976 (Có mặt).

Địa chỉ: 82 Ô 2, Khu 1, thị trấn CG, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

Bị đơn: Đào Phú H, sinh năm 1979 (Có mặt).

Địa chỉ: ấp NH, xã Hòa Định, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh Đào Phú H là Luật sư Bùi Lưu L – Đoàn luật sư tỉnh Tiền Giang.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Lê Ngọc Ch, sinh năm 1989 (Vắng mặt).

Địa chỉ: ấp HLT, xã Hòa Định, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

- LH, sinh năm 1996 (Vắng mặt).

Địa chỉ: ấp HLT, xã Hòa Định, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

- Lê Thị Thu H1, sinh năm 1965 (Vắng mặt).

Địa chỉ: ấp HT, xã Hòa Định, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

Người làm chứng: Chị Lê Thị Bé H3(tên thường gọi là H2), sinh năm 1977 (Vắng mặt).

Địa chỉ: ấp NH, xã Hòa Định, huyện Chợ gạo, tỉnh Tiền Giang.

- Người kháng cáo: Bị đơn Đào Phú H, sinh năm 1979.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm, nguyên đơn bà Lê Thị Bạch Th có người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là chị Hồ Thị N trình bày:

Bà Lê Thị Bạch Th bán thức ăn gia súc. Anh Đào Phú H mua thiếu thức ăn gia súc của bà Th từ đầu năm 2014. Sau những lần lấy thức ăn thì anh H còn thiếu tiền thức ăn của bà Th. Đến ngày 14/3/2018 anh H lấy thêm 14 bao cám với số tiền 3.640.000 đồng, hai bên chốt nợ tổng cộng với nợ cũ từ năm 2014 thì anh H còn nợ bà Th tổng cộng số tiền 198.715.000 đồng, hai bên có làm giấy tay.

Sau khi chốt nợ, thì anh H có trả cho bà Th được 16.000.000 đồng, còn nợ lại 182.715.000 đồng, mặc dù bà Th nhiều lần yêu cầu anh H trả tiền cho bà Th nhưng anh H không thực hiện.

Do đó bà Th yêu cầu anh Đào Phú H trả cho bà Th số tiền mua thức ăn chăn nuôi còn nợ là 182.715.000 đồng và tiền lãi với lãi suất 0,83%/tháng đến khi tòa án xét xử sơ thẩm. Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của của nguyên đơn chỉ yêu cầu tính lãi tròn 51 tháng với số tiền: 182.715.000 đồng x 0,83%/tháng x 51 tháng = 77.343.259 đồng, tổng cộng là 260.058.259 đồng, yêu cầu trả khi án có hiệu lực pháp luật.

Bị đơn anh Đào Phú H trình bày: Từ năm 2014 anh H có chăn nuôi heo và có mua thức ăn chăn nuôi heo do bà Lê Thị Bạch Th bán. Hai bên thỏa thuận, bà Th sẽ bán thức ăn gối đầu cho anh H nuôi heo đến khi nào bán xong đợt heo đó thì anh H sẽ trả đủ tiền cho bà Th. Nhưng do vào khoảng năm 2016 đến năm 2018 heo rớt giá nên trả không đủ tiền cho bà Th.

Anh H thừa nhận vào ngày 14/3/2018 hai bên có gặp nhau chốt nợ, anh H còn nợ bà Th tiền thức ăn chăn nuôi số tiền là 198.715.000 đồng, nhưng anh không có ký tên vào giấy chốt nợ cho bà Th giữ. Sau khi chốt nợ bà Th hứa cho anh H trả mỗi tháng 4.000.000 đồng cho đến khi hết số nợ, nên hàng tháng anh H đều có trả cho bà Th 4.000.000 đồng, bắt đầu trả sau ngày hai bên chốt nợ khoảng 2 đến 3 tháng (anh không nhớ chính xác tháng nào) đến gần tết âm lịch năm 2020 nhưng anh không nhớ rõ là ngày nào, lần cuối anh trả 16.000.000 đồng đưa tiền cho con gái của bà Th là chị Lê Ngọc Ch. Trong quá trình trả tiền, có những tháng anh trả không đủ đến số tiền 4.000.000 đồng, nhưng có tháng trả nhiều hơn 4.000.000 đồng, nếu anh có tiền sớm thì trả sớm, có tiền trễ thì trả trễ, miễn sao trả trong tháng là được. Tổng cộng anh H đã trả cho bà Th được số tiền là 112.000.000 đồng chỉ còn nợ lại 86.715.000 đồng. Mỗi khi đến đại lý của bà Th để trả tiền, nếu gặp bà Th thì đưa trực tiếp cho bà Th, nếu không gặp được bà Th thì anh H đưa cho con của bà Th hoặc là đưa cho em gái của bà Th nhờ những người này đưa lại cho bà Th, cụ thể là đưa cho chị Lê Ngọc Ch, sinh năm 1989, anh LH, sinh năm 1996 cùng địa chỉ ấp HLT, xã Hòa Định, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang (là con của bà Th) và bà Lê Thị Thu H1, sinh năm 1965, địa chỉ ấp HT, xã Hòa Định, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang (là em gái của bà Th), nhưng do tin tưởng nên tất cả những lần trả tiền cho bà Th đều không có làm giấy tờ gì, tuy nhiên có sự chứng kiến của chị Lê Thị Bé H3(tên thường gọi là Hận), sinh năm 1977, địa chỉ ấp Nhơn Hòa, xã Hòa Định, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang (là người giúp việc cho nhà của bà Th).

Nay theo yêu cầu khởi kiện của bà Th, anh không đồng ý, chỉ đồng ý trả cho bà Th số tiền 86.715.000 đồng. Hiện do hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên xin trả dần cho bà Th mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi hết số nợ 86.715.000 đồng và xin không trả lãi.

Do anh H thừa nhận số tiền anh còn nợ bà Th khi hai bên chốt nợ là 198.715.000 đồng nên anh không yêu cầu giám định chữ ký, chữ viết trong tờ giấy viết tay do phía bà Th cung cấp cho Tòa án.

Chị Hồ Thị N là người đại diện theo ủy quyền của bà Th không đồng ý theo yêu cầu của anh H.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Thu H1 trình bày: Bà Hà là em ruột bà Th, bà không có mối quan hệ bà con với anh H, chỉ biết anh H vì trước đây anh H thường đến đại lý bán thức ăn chăn nuôi của bà Th. Bà Hà cũng thường tới nhà của bà Th nên có nghe bà Th nói anh H còn thiếu tiền mua thức ăn chăn nuôi của bà Th, nhưng không biết còn thiếu bao nhiêu tiền. Chỉ có một lần duy nhất là khoảng từ ngày 24/12/2020 âm lịch đến 28/12/2020 âm lịch (nhằm từ ngày 05/02/2021 đến ngày 09/02/2021 dương lịch) anh H có ghé đại lý của bà Th để trả cho bà Th 16.000.000 đồng, nhưng không gặp bà Th nên bà Hà có nhận giùm và đã đưa lại cho Lê Ngọc Ch là con của bà Th. Ngoài ra, bà Hà không có nhận từ anh H khoảng tiền nào khác để trả cho bà Th.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lê Ngọc Ch trình bày: Chị Ch là con của bà Th. Chị Ch không biết anh H, cũng không biết việc mua bán giữa bà Th và anh H. Vào khoảng thời gian từ ngày 24/12/2020 âm lịch đến 28/12/2020 âm lịch (nhằm từ ngày 05/02/2021 đến ngày 09/02/2021 dương lịch), chị không nhớ chính xác ngày nào vì đó là khoảng thời gian cha của chị bị gãy chân nên mẹ chị là bà Th đi nuôi bệnh cha chị ở bệnh viện không có nhà, nên chị có đến giữ nhà cho bà Th, trong khoảng thời gian đó, bà Lê Thị Thu H1 (em ruột của bà Th) có đưa cho chị số tiền 16.000.000 đồng, nói là của anh H trả tiền mua thức ăn chăn nuôi cho bà Th, khi bà Th về thì chị đã đưa lại cho bà Th, ngoài số tiền này thì chị không có nhận số tiền nào khác của bất cứ ai trả cho bà Th.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh LH trình bày: Anh LH là con ruột của bà Th. Anh không biết anh H là ai, cùng không có ông H nào đưa tiền cho anh để anh đưa lại cho bà Th.

Người làm chứng chị Lê Thị Bé H3 trình bày: Trước đây (không nhớ chính xác năm nào) chị H3 có làm giúp việc nhà và giữ cháu ngoại cho bà Th. Chị H3 chỉ thấy anh H có đến đại lý của bà Th để mua thức ăn chăn nuôi, nhưng không biết việc mua bán như thế nào. Công việc chủ yếu của chị là giữ trẻ (giữ cháu ngoại của bà Th) và giúp việc nhà cho bà Th ở tại nhà bà Th nên chị không quan tâm đến việc mua bán giữa bà Th và anh H, chị cũng không biết việc anh H mua thiếu hay là có trả tiền cho bà Th. Chị H3 không có chứng kiến việc anh H trả tiền cho bà Th, hay là anh H đưa cho tiền cho chị Chi, anh Huy để đưa lại cho bà Th. Vì chị H3 giữ trẻ và làm việc nhà tại nhà bà Th, còn việc mua bán là ở đại lý, nhà và đại lý cách nhau một con lộ. Hiện chị H3 đã nghỉ làm cho nhà bà Th khoảng 3 đến 4 rồi.

Tại Bản án dân sơ thẩm số 219/2022/DS-ST ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang áp dụng khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 36, các điều 92, 147, 220, 227, 235, 244 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 430, 440, 468, 357 Bộ luật dân sự; Điểm d khoản 1 Điều 12, Điều 15, Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Luật thi hành án dân sự. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Bạch Th.

Buộc anh Đào Phú H có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị Bạch Th số tiền mua thức ăn chăn nuôi là 182.715.000đồng và tiền lãi là 77.343.259 đồng. Tổng cộng là 260.058.259 đồng (Hai trăm sáu mươi triệu không trăm năm mươi tám ngàn hai trăm năm mươi chín đồng);

Thời gian thực hiện trả tiền khi bản án có hiệu lực pháp luật;

Kể từ ngày bà Lê Thị Bạch Th có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, nếu anh Đào Phú H chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì hàng tháng còn phải trả lãi theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 17/6/2022, bị đơn Đào Phú H có đơn kháng cáo với nội dung yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm số 219/2022/DS-ST ngày 16/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét không chấp nhận quyết định của bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Luật sư Bùi Lưu L bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh Đào Phú H phát biểu: Nguyên đơn căn cứ vào tờ biên nhận ngày 14/3/2018 để yêu cầu anh H trả nợ tiền gốc là 182.715.000 đồng và tiền lãi là 77.343.250 đồng là chưa có cơ sở vững chắc vì biên nhận ngày 14/3/2018 anh H ký hàng ngang đối với biên nhận và tại Tòa sơ thẩm anh H chỉ thừa nhận có ký tên vào tờ giấy trắng do bà Th đưa, cộng với nhiều tình tiết khác nhưng chưa được làm rõ. Sổ theo dõi nợ anh H trả cho bà Th, anh H đã làm mất nhưng bà Th không cho đối chiếu. Nguyên đơn có bắt heo của anh H để cấn trừ nợ nhưng cũng chưa được Tòa sơ thẩm làm rõ. Nguyên đơn cũng không đưa ra được số nợ của anh H đối với từng năm. Biên nhận nợ cũng không thể hiện rõ là các khoản nợ gì để ra số tiền 198.715.000 đồng. Đối với tiền lãi, đây là tranh chấp hợp đồng mua bán thì đã có tiền lãi trong việc mua bán hàng nên việc nguyên đơn yêu cầu trả lãi là không có căn cứ vì trong giấy nhận nợ không có thỏa thuận thời gian trả.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm:

-Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Các đương sự cũng chấp hành theo đúng quy định của pháp luật về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các đương sự.

- Về nội dung vụ án và yêu cầu kháng cáo của anh Đào Phú H: Tại Tòa sơ thẩm anh H thừa nhận ngày 14/3/2018 anh H và bà Th tổng kết nợ thì anh H còn nợ bà Th số tiền 198.715.000 đồng. Anh H trình bày là có trả nợ dần cho bà Th mỗi tháng khoảng 4.000.000 đồng nhưng anh không có căn cứ gì để chứng minh, bà Th chỉ thừa nhận anh H chỉ trả được số tiền là 16.000.000 đồng. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm xử buộc anh H trả cho bà Th số tiền vốn là 182.715.000 đồng và tiền lãi là có căn cứ pháp luật. Anh H kháng cáo nhưng không có căn cứ gì để chứng minh nên yêu cầu kháng cáo của anh H là không có căn cứ pháp luật. Do đó đề nghị giữ nguyên án sơ thẩm.

Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, nội dung yêu cầu kháng cáo của Đào Phú H lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Về việc xác định thẩm quyền và quan hệ tranh chấp “Hợp đồng mua bán tài sản” của Tòa án cấp sơ thẩm là phù hợp với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn theo quy định tại khoản 3 Điền 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Đơn kháng cáo và biên lai đóng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm của ông Đào Phú H nộp trong thời hạn quy định tại Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự nên được chấp nhận và xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung vụ án và xét yêu cầu kháng cáo của anh Đào Phú H:

Về việc nợ tiền mua thức ăn gia súc, bà Th và anh H trình bày thống nhất nhau như sau: Vào năm 2014 bà Lê Thị Bạch Th bắt đầu bán thức ăn gia súc cho anh Đào Phú H. Đến ngày 14/3/2018 bà Th và anh H chốt nợ, anh H còn nợ bà Th 198.715.000 đồng, anh H có ký xác nhận còn nợ bà Th 198.715.000 đồng (bút lục 85).

Về việc trả tiền, bà Th và anh H trình bày không thống nhau: Bà Th trình bày bà có yêu cầu anh H trả tiền nhiều lần nhưng anh H chỉ trả được một lần số tiền là 16.000.000 đồng vào cuối năm 2020 âm lịch, anh H còn nợ lại 182.715.000 đồng. Còn anh H trình bày có trả tiền dần cho bà Th mỗi tháng 4.000.000 đồng, bắt đầu từ tháng 4 năm 2018 cho đến hết năm 2020 âm lịch, lần cuối trả số tiền là 16.000.000 đồng, tổng cộng anh H trả cho bà Th được 112.000.000 đồng, chỉ còn nợ 86.715.000 đồng. Anh H trả tiền trực tiếp cho bà Lê Thị Bạch Th, Lê Ngọc Ch, LH (là con bà Th), Lê Thị Thu H1 (em bà Th) và có sự chứng kiến của Lê Thị Bé H3. Phía bà Hà chỉ thừa nhận anh H có gửi 16.000.000 đồng trả cho bà Th, bà Hà đưa lại cho Lê Ngọc Ch và Lê Ngọc Ch đã giao lại cho bà Th nên chỉ có căn cứ xác định anh H đã trả bà Th số tiền là 16.000.0000 đồng. Còn các lần trả dần mỗi tháng 4.000.000 đồng, bắt đầu từ tháng 4 năm 2018 cho đến cuối năm 2020 như anh H trình bày thì các đương sự không thừa nhận, anh H cũng không có chứng cứ gì để chứng minh nên lời trình bày này của anh H không có căn cứ để chấp nhận.

Bà Th kiện yêu cầu anh H trả số tiền 182.715.000 đồng là có căn cứ pháp luật. Đối với số tiền lãi, bà Th yêu cầu anh H trả sau khi hai bên chốt nợ, bắt đầu vào tháng 4 năm 2022 đến khi xét xử sơ thẩm, lãi suất 0,83%/tháng là phù hợp với Điều 440 và 357 Bộ luật dân sự. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Th, buộc anh H trả cho bà Th số tiền mua thức ăn chăn nuôi là 182.715.000 đồng và tiền lãi là 77.343.259 đồng là có căn cứ pháp luật.

Tại Tòa án cấp phúc thẩm, anh H yêu cầu trưng cầu giám định chữ ký tại giấy nhận nợ ngày 14/3/2018. Tại Bản kết luận giám định số 1253/KL- KTHS(D92) ngày 29/11/2022 của Công an tỉnh Tiền Giang kết luận chữ ký mẫu mang tên Đào Phú H trên tài liệu cần giám định chử ký hiệu A so với chữ ký mang tên Đào Phú H trên tài liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M1 đến M10 là do cùng một người ký ra. Do đó, có đủ căn cứ pháp luật xác định chữ ký tại giấy nhận nợ là của anh H.

Anh H kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ gì để chứng minh nên yêu cầu kháng cáo của anh H là không có căn cứ pháp luật.

[3] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Quan điểm của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh H trái với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[5] Về án phí: anh Đào Phú H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 13.002.912 đồng và án phí phúc thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 293, khoản 1 Điều 308, Điều 313, và khoản 1 Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Đào Phú H.

- Giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 219/2022/DS-ST ngày 16/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

Căn cứ khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 36, các điều 92, 147, 220, 227, 235, 244 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 430, 440, 468, 357 Bộ luật dân sự; Điểm d khoản 1 Điều 12, Điều 15, Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Luật thi hành án dân sự.

Xử: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Bạch Th.

Buộc anh Đào Phú H có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị Bạch Th số tiền mua thức ăn chăn nuôi là 182.715.000đồng và tiền lãi là 77.343.259 đồng. Tổng cộng là 260.058.259 đồng (Hai trăm sáu mươi triệu không trăm năm mươi tám ngàn hai trăm năm mươi chín đồng).

Kể từ ngày bà Lê Thị Bạch Th có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, nếu anh Đào Phú H chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì hàng tháng còn phải trả lãi theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2. Về án phí: Anh Đào Phú H phải chịu 13.003.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm được trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai thu số 0024920 ngày 09/6/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang nên còn phải nộp tiếp số tiền là 13.003.000 đồng.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

94
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 340/2022/DS-PT

Số hiệu:340/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về