Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 300/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 300/2023/DS-PT NGÀY 31/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 235/2023/TLPT-DS ngày 21 tháng 6 năm 2023 về việc: Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 74/2023/DS-ST ngày 17/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện U Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 184/202/QĐ-PT ngày 21 tháng 7 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty TNHH MTV L Địa chỉ: Ấp 15, xã N, huyện U, tỉnh C ..

Đại diện theo pháp luật: Ông Trần Ngọc T – Chức vụ: Chủ tịch kiêm Giám đốc.

Đại diện theo uỷ quyền: Ông Phạm Duy L (theo giấy uỷ quyền số 82/GUQ- Cty ngày 17 tháng 02 năm 2023) (có mặt) Địa chỉ cư trú: Khóm 3, phường Tân Xuyên, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Ông Phạm Thái H2, sinh năm 1973 (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp 14, xã N, huyện U, tỉnh C ..

mặt) Đại diện theo ủy quyền của ông H2: Ông Lê Trí T, sinh năm 1979 (có Địa chỉ: Ấp 6, xã Khánh Lâm, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1945 (có mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp 4, xã N, huyện U, tỉnh C ..

Người có kháng cáo: Bị đơn ông Phạm Thái H2.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn ông Phạm Duy L trình bày: Ngày 10/12/2014 công ty TNHH MTV L (viết tắt là Công ty) ký hợp đồng kinh tế số 1261/HĐKT, về việc mua bán khai thác lâm sản cây đứng năm 2014 với ông Phạm Thái H2, diện tích khai thác là 21,41ha, với số tiền 628.566.000 đồng, thời gian khai thác từ ngày 10/12/2014 đến ngày 31/12/2014, ông H2 được khai thác trắng lâm sản, phương thức thanh toán phía ông H2 nộp trước số tiền 200.000.000 đồng, số tiền còn lại phải nộp dứt điểm vào ngày 25/12/2014.

Sau khi ký hợp đồng ông H2 đã nộp số tiền 200.000.000 đồng và ông H2 đã khai thác cây xong, nhưng đến hạn thanh toán số tiền còn lại trong hợp đồng thì ông H2 không thanh toán. Công ty đã tiến hành làm việc và đối chiếu nợ với ông H2 nhiều lần, nhưng ông H2 cam kết mà không thực hiện, mà cho rằng số nợ trên là của ông Nguyễn Văn B, ông chỉ là người đứng tên mua cây dùm ông B.

Do đó, Công ty yêu cầu Toà án giải quyết buộc ông H2 trả cho Công ty số tiền 428.566.000 đồng và tiền lãi phát sinh từ năm 2014 cho đến nay theo lãi suất ngân hàng.

Tại phiên toà đại diện theo uỷ quyền của Công ty rút lại yêu cầu tính lãi đối với ông Phạm Thái H2.

* Bị đơn ông Phạm Thái H2 trình bày: Tôi xác định tôi có ký hợp đồng kinh tế số 1261/HĐKT, ngày 10/12/2014 với Công ty, nhưng tôi đứng tên dùm ông Nguyễn Văn B, số tiền 200.000.000 đồng nộp vào Công ty là do ông B nộp và ông B là người trực tiếp khai thác cây với Công ty. Khi ký hợp đồng xong thì ông B khai thác cây nhưng do phía Công ty xác định nhầm phần diện tích đã hợp đồng với người khác nên Công ty đã đổi phần diện tích cây khác cho ông B khai thác. Đối với các biên bản đối chiếu nợ là do tôi ký nhưng do ông Nguyễn Văn Đ (kế toán Công ty) đưa và nói nội dung khác không phải nội dung tôi thiếu Công ty tiền nợ hợp đồng mua bán cây năm 2014.

Đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty thì tôi không đồng ý, do tôi chỉ là người ký tên dùm, không phải là người trực tiếp mua.

* Ông Nguyễn Văn B trình bày: Trước đây tôi có nhờ ông H2 đứng tên mua tràm dùm rất nhiều hợp đồng với Công ty, nhưng đối với Hợp đồng kinh tế số 1261/HĐKT, ngày 10/12/2014, do thời gian lâu quá tôi không nhớ. Đối với yêu cầu của Công ty đối với ông H2 thì tôi không có ý kiến gì, tôi đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 74/2023/DS-ST ngày 17/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện U Minh đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của công ty TNHH MTV L đối với ông Phạm Thái H2.

Buộc ông Phạm Thái H2 trả cho công ty TNHH MTV L số tiền 428.566.000 đồng.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất do chậm thi hành, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 21/5/2023 bị đơn là ông H2 kháng cáo bản án sơ thẩm yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét lại bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm phía bị đơn là ông H2 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Viện kiểm sát nhân tỉnh Cà Mau đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông H2, giữ y bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện U Minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét kháng cáo của bị đơn Hội đồng xét xử thấy rằng:

Bị đơn là ông H2 kháng cáo yêu cầu Tòa án tuyên buộc ông Nguyễn Văn B trả số nợ công ty yêu cầu vì đây là khoản nợ của ông B và chịu án phí vì ông chỉ ký tên dùm ông B. Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp cho ông H2 xác định khoản nợ từ năm 2014 nhưng đến nay mới khởi kiện là đã hết thời hiệu khởi kiện nên đề nghị hủy bản án sơ thẩm.

Hội đồng xét xử xét thấy nội dung kháng cáo của bị đơn là ông H2 không có cơ sở chấp nhận bởi lẽ:

Thấy rằng giữa Công ty TNHH MTV L với ông H2 có xác lập việc mua bán khai thác lâm sản cây đứng với nhau là có thật và được ông H2 thừa nhận, tuy nhiên ông H2 cho rằng chỉ là người đứng tên ký dùm cho ông B.

Căn cứ vào hợp đồng kinh tế số 1261/HĐKT, ngày 10 tháng 12 năm 2014 và các biên bản đối chiếu nợ ngày 31/12/2014; ngày 31/12/2015 và ngày 31/12/2016 với ông H2, Phiếu thu tiền ngày 10/12/2014, biên bản giải quyết tiền mua lâm sản giữa ông H2, ông B với Công ty ngày 27/10/2022 đã xác định được ông H2 là người trực tiếp mua bán lâm sản với Công ty. Ông H2 cho rằng khi ký các biên bản đối chiếu nợ thì ông không biết nội dung và ông chỉ là người đứng tên hợp đồng dùm cho ông Nguyễn Văn B. Tuy nhiên phía Công ty và ông Nguyễn Văn B không thừa nhận việc ông H2 trình bày. Đồng thời, Toà án cấp sơ thẩm đã tiến hành xác minh đối với ông Nguyễn Văn Đ, ông Đoán xác định đã gặp trực tiếp ông H2 làm việc về nội dung ông H2 nợ tiền mua bán cây với Công ty, chính ông H2 đã ký xác nhận nợ vào các biên bản đối chiếu nợ. Xét thấy, ngoài lời trình bày của ông H2 thì ông H2 không có chứng cứ gì để chứng minh cho lời trình bày của mình là có căn cứ. Do đó án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty về việc buộc ông H2 trả số tiền còn nợ theo hợp đồng kinh tế số 1261/HĐKT, ngày 10 tháng 12 năm 2014 với số tiền 428.566.000 đồng là có cơ sở, đúng qui định pháp luật.

[2] Đối với tranh luận của người đại diện hợp pháp cho ông H2 đặt ra tại phiên tòa cho rằng hết thời hiệu và yêu cầu hủy án, xét nội dung này ông H2 không đặt ra trong quá trình giải quyết ở cấp sơ thẩm và ông cũng không có yêu cầu kháng cáo nên không có cơ sở xem xét.

Từ những phân tích nêu trên, án sơ thẩm tuyên xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Công ty TNHH MTV L là có căn cứ, nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông H2.

[3] Xét đề nghị giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tại phiên tòa là phù hợp nên được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

Về án phí phúc thẩm: Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn là ông H2 nên ông H2 phải chịu án phí phúc thẩm theo qui định.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn là ông ông Phạm Thái H2. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 74/2023/DS-ST ngày 17/5/2023 của Toà án nhân dân huyện U Minh.

Tuyên Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của công ty TNHH MTV L đối với ông Phạm Thái H2.

1. Buộc ông Phạm Thái H2 trả cho công ty TNHH MTV L số tiền 428.566.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, nếu chậm thi hành án thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu tính lãi của công ty TNHH MTV L đối với ông Phạm Thái H2.

3. Về án phí: Buộc ông Phạm Thái H2 nộp án phí số tiền 21.142.600 đồng.

Hoàn trả cho công ty TNHH MTV L số tiền 10.571.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0010999, ngày 28 tháng 02 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.

Án phí phúc thẩm: Ông H2 phải chịu là 300.000 đồng, ngày 29/5/2023 ông đã dự nộp 300.000 đồng tại lai thu số 001214 tại Chi cục Thi hành án huyện U Minh được chuyển thu đối trừ.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

50
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 300/2023/DS-PT

Số hiệu:300/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về