Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 22/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH Đ

BẢN ÁN 22/2024/DS-PT NGÀY 14/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 3 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 244/2023/TLPT-DS ngày 27 tháng 10 năm 2023, về việc “Tranh chấp Hợp đồng mua bán tài sản; Hợp đồng thi công và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 43/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Đ bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 424/2023/QĐ-PT ngày 01 tháng 12 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số: 250/2023/QĐ-PT ngày 26/12/2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Trần Hải D, sinh năm 1993; Cư trú tại: Số 186 Phan Đình Phùng, Phường 2, thành phố L, tỉnh Đ.

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Đoàn Thị Tuyết N, sinh năm 1966; Trú tại: Số 9/33 Lý Nam Đế, Phường 8, thành phố L, tỉnh Đ. Có mặt

2. Bị đơn: Ông Nghiêm Văn M, sinh năm 1955 và bà Nguyễn Bích T, sinh năm 1981; Cư trú tại: Số 151B Ngô Gia Tự, Phường 12, thành phố L, tỉnh Đ.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn M T, sinh năm 1983 và bà Ngô Trần Thùy D, sinh năm 1999; Cùng cư trú tại: Số 05 Nguyễn Thượng Hiền, Phường 5, thành phố L, tỉnh Đ. Có mặt

Người kháng cáo: Bị đơn ông Nghiêm Văn M

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời trình bày của nguyên đơn và trình bày của người đại diện theo ủy quyền bà Đoàn Thị Tuyết N thì: Anh Trần Hải D là chủ cửa hàng thiết bị Điện Lastingled; Địa chỉ: Số 186, đường Phan Đình Phùng, Phường 2, thành phố L. Vào ngày 14/12/2020 vợ chồng ông M, bà Th đã ghé cửa hàng của anh D xem thiết bị đèn điện và sau đó ông M, bà Th đã gọi anh D xuống công trình xây dựng của mình tại điểm du lịch F (địa chỉ đường ĐT 723, Thái Phiên, Phường 12, thành phố L, tỉnh Đ) để khảo sát tư vấn thi công thiết bị đèn điện. Ngày 16/12/2020 bên anh D đã xuống khảo sát hiện trạng thực tế công trình, ngày 17/12/2020 anh D và bà Th kết bạn Zalo để tiến hành tư vấn các sản phẩm phù hợp với công trình để thi công. Trong quá trình tư vấn để thi công thì ông M, bà Th đã yêu cầu bên anh D tiếp tục thi công công trình đang giang dở và lắp ráp một số đường ống nước trong quán cà phê và quầy bar. Sau khi hoàn thành công việc, phía bà Th có báo về việc đường ống nước trong nhà vệ sinh và nước tại quầy bar bị rò rỉ, lúc đó anh D đã gọi thợ vào khắc phục sửa chữa xong theo yêu cầu của bà Th. Sau đó phía ông M, bà Th yêu cầu bên anh D xuống sửa lại đường ống nước ở dưới nền nhà vệ sinh do bị ngấm nước, bên anh D cũng đã xuống xem xét thì phát hiện việc nước bị ngấm không phải lỗi thi công của phía bên anh D nên mới không sửa chữa, lỗi là do đường dẫn nước sát vách tường bờ taluy, khi trời mưa mới bị ngập, đường dẫn nước không kịp thoát, nên mới tràn vào nhà, chứ không phải lỗi thi công của anh D, hệ thống này do phía bên đội xây dựng đã làm trước đó, phía anh D chỉ hoàn thiện ráp hệ thống nước ở trong nhà vệ sinh và chỉ ráp giai đoạn cuối vì trước đó hệ thống đường nước đã được bên đội xây dựng làm, bên anh D chỉ gắn hệ thống vòi nước và chỉnh lại một số vị trí hệ thống nước của nhà vệ sinh và ráp các bóng đèn, hệ thống điện chiếu sáng. Đường nước bên ngoài và đường nước đi âm trong tường không phải của bên anh D thi công mà của nhóm thợ khác đã làm trước đó, khi anh D thực hiện là khâu cuối của công trình, chủ yếu anh D bán thiết bị điện chiếu sáng và lắp ráp bóng đèn chiếu sáng cho công trình còn việc thi công xây dựng của công trình không liên quan đến anh D.

Khi thực hiện thi công công trình như nêu trên do tin tưởng nhau nên chỉ thực hiện thi công theo yêu cầu chỉ dẫn của bên ông M, bà Th chứ hai bên không có hợp đồng ký kết bằng văn bản gì.

Sau khi thi công công trình xong phía bên anh D đã cùng bà Th nghiệm thu, lúc đó bà Th trực tiếp đứng ra nghiệm thu và bà Th bảo để ông M xem xong đã rồi mới làm việc lại với bên anh D. Tuy nhiên, đã nhiều lần anh D liên hệ với bà Th qua zalo, qua điện thoại để yêu cầu ông M, bà Th thanh toán tiền, nhưng phía bị đơn cứ nhiều lần hẹn sẽ trả nhưng không thực hiện.

Vì vậy, anh D đã khởi kiện đến Tòa án để yêu cầu ông Nghiêm Văn M và bà Nguyễn Bích T có trách nhiệm thanh toán cho anh số tiền 155.026.614đ gồm tiền bán hàng điện nước và tiền công lắp ráp hệ thống điện nước. Nhưng sau khi khởi kiện thì giữa anh D và bà Th đã xác nhận lại các hàng mặt hàng thiết bị điện nước đã lắp ráp tại công trình của vợ chồng ông M, bà Th có sự thay đổi một ít hạng mục đã lắp ráp, nên anh D xin thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện so với yêu cầu khởi kiện ban đầu, hiện chỉ còn yêu cầu ông M, bà Th là thanh toán số tiền 146.254.214đ (theo bảng tính kê thì trong đó tiền thiết bị nước là 7.705.195, thiết bị điện trong - ngoài là 44.235.919, thiết bị điện ngoài P2 là 1.019.800đ, thiết bị đèn chiếu sáng là 58.497.300đ, gia công sắt - thi công là 13.500.000đ, thi công trọn gói lắp ráp hệ thống điện nước trong toa lét và quầy ba và hệ thống điện chiếu sáng bên ngoài là 36.000.000đ, đã tính trừ tiền gương giảm thêm là 10.000.000đ + tiền hàng trả về là 4.704.000đ). Anh D không đồng ý với yêu cầu khởi kiện phản tố của bị đơn vì xác định lỗi nước ngập như trình bày và yêu cầu của ông M, bà Th không phải lỗi thi công của bên anh D mà do hệ thống xây dựng của đội xây dựng trước đó.

Theo yêu cầu phản tố và trình bày của của bị đơn ông Nghiêm Văn M, bà Nguyễn Bích T (Nguyễn Thị Bích Th) thì: Quá trình vợ chồng ông M, bà Th có giao cho anh Trần Hải D thực hiện lắp ráp hệ thống thoát nước trong phòng vệ sinh (lô 12) thuộc dự án phát triển nông nghiệp công nghệ cao kết hợp tham quan du lịch thuộc tiểu khu 151B, phường 12, thành phố L. Trong quá trình thỏa thuận thi công thì phía bên anh D khẳng định tất cả các công trình sẽ thi công thành công. Nhưng khi bàn giao công trình cho vợ chồng ông nước từ ngoài đã tràn vào sảnh tiệm café và nước dâng lên, thấm qua tường nhà vệ sinh nam lẫn nữ, gây ra nhiều khó khăn cho du khách và có lúc bị ngập nhiều không thể sử dụng được, vợ chồng ông bà đã yêu cầu anh D khắc phục để phục vụ khách, bên anh D có đưa trưởng nhóm đã thi công công trình và sau đó là một Công ty xây dựng vào hiện trường xem xét và khảo sát, nhưng cho đến nay cũng không làm gì để khắc phục.

Nay ông M, bà Th chỉ đồng ý một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đồng ý thanh toán số tiền thiết bị điện nước do anh D đã bán cho bà Th, ông M như đã kiểm kê là 110.254.214đ, còn khoản tiền công 36.000.000đ thì không đồng ý thanh toán. Ngoài ra bị đơn có yêu cầu phản tố yêu cầu anh D có trách nhiệm khắc phục việc thấm nước, ngập nước trong nhà vệ sinh của khu vực nhà hàng - quán cà phê trong khu tham quan du lịch của công trình nơi anh D nhận thi công và yêu cầu anh D có trách nhiệm phải trả cho ông M, bà Th số tiền 50.000.000đ là thiệt hại trong quá trình kinh doanh trong năm 2021, 2022 do thời điểm anh D lắp ráp hệ thống đường nước đi âm trong tường không đảm bảo dẫn đến lúc trời mưa, hệ thống thoát nước không tốt dẫn đến bị ngập nước trong nhà vệ sinh tràn ra ngoài.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm 43/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Đ.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp Hợp đồng mua bán tài sản, Hợp đồng thi công” của nguyên đơn anh Trần Hải D đối với bị đơn ông Nghiêm Văn M, bà Nguyễn Bích T

(Nguyễn Thị Bích Th).

Không chấp nhận yêu cầu phản tố về việc “Tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại” của bị đơn ông Nghiêm Văn M, bà Nguyễn Bích T (Nguyễn Thị Bích Th) đối với nguyên đơn anh Trần Hải D.

Buộc ông Nghiêm Văn M, bà Nguyễn Bích T (Nguyễn Thị Bích Th) có trách nhiệm liên đới thanh toán cho anh Trần Hải D số tiền 146.254.214đ (Một trăm bốn mươi sáu triệu hai trăm năm mươi bốn ngàn hai trăm mười bốn đồng) tiền mua bán tài sản và tiền công thi công.

Ngoài ra Bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 06/10/2023, bị đơn ông Nghiêm Văn M kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số: 43/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố L.

Tại phiên tòa hôm nay:

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Nguyễn M Tiến, bà Ngô Trần Thùy D vẫn giữ nguyên kháng cáo đề nghị hủy Bản án sơ thẩm do vi phạm nghiêm trọng tố tụng.

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Đoàn Thị Tuyết Ng không đồng ý kháng cáo của nguyên đơn và đề nghị giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ phát biểu: Về thủ tục tố tụng Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự cũng đã chấp hành đầy đủ giấy báo của Tòa án, thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên tòa phúc thẩm. Về nội dung: Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và qua tranh tụng công khai tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Nghiêm Văn M, bà Nguyễn Bích T vắng mặt tại phiên tòa, có người đại diện theo ủy quyền tham gia phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Qua xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thấy rằng: Nguyên đơn anh Trần Hải D và bị đơn ông Nghiêm Văn M, bà Nguyễn Bích T (Nguyễn Thị Bích Th) có xác lập giao dịch mua bán mặt hàng nội thất, thiết bị điện nước, nhận thi công Công trình; Ông D cho rằng, ông M, bà Th vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên yêu cầu bị đơn có trách nhiệm thanh toán số tiền 155.026.614đ; Còn bị đơn không đồng ý và có yêu cầu phản tố về việc yêu cầu nguyên đơn bồi thường thiệt hại do việc thi công không đảm bảo nên các bên phát sinh tranh chấp.

Theo tài liệu chứng cứ thu thập và lời trình bày của các bên đương sự thì giữa nguyên đơn và bị đơn có xác lập giao dịch mua bán hàng hóa là mặt hàng nội thất, thiết bị điện nước. Theo đó nguyên đơn cung cấp các mặt hàng nội thất và thiết bị điện nước để lắp ráp tại Công trình dự án xây dựng của ông M, bà Th tại Phường 12, thành phố L. Ngoài ra hai bên thỏa thuận miệng về việc nguyên đơn nhận khảo sát, thi công, lắp ráp hệ thống nội thất điện nước tại khu vực nhà hàng - quầy bar - cafe của Công trình xây dựng còn dang dở của vợ chồng ông M, bà Th.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ thu thập được và lời khai của các bên đương sự tại phiên tòa phúc thẩm thể hiện việc lắp đặt các thiết bị được thực hiện tại thửa đất số 1, tờ bản đồ DCCS tại tiểu khu 151B, Phường 12, thành phố L thuộc dự án phát triển nông nghiệp Công nghệ cao, kết hợp tham quan du lịch thuộc Công ty TNHH Sinh học sạch.

Như vậy việc giao dịch giữa các bên giao nhằm mục đích lợi nhuận và nguyên đơn là hộ kinh doanh LasTing Led – chủ hộ kinh doanh ông Trần Hải D có đăng ký kinh doanh, còn bị đơn là Công ty TNHH Sinh học sạch có tư cách pháp nhân, ông D Văn M là đại diện theo pháp luật của Công ty.

Do đó xác định đây là vụ án kinh doanh thương mại và quan hệ tranh chấp của vụ án là: Tranh chấp kinh doanh thương mại – mua bán hàng hóa; Tranh chấp Hợp đồng thi công và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là ““Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng thi công và yêu cầu bồi thường thiệt hại” là chưa đúng quy định.

Theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì Công ty TNHH Sinh học sạch gồm có 05 thành viên góp vốn. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm không đưa các thành viên góp vốn vào tham gia tố tụng là vi phạm thủ tục tố tụng.

Mặt khác bị đơn trong vụ án là Công ty TNHH Sinh học sạch. Tuy nhiên cấp sơ thẩm buộc cá nhân ông D Văn M và bà Nguyễn Bích T phải có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn ông Trần Hải D là không đúng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

[3] Từ những phân tích trên, cấp sơ thẩm xác định sai tư cách tố tụng của đương sự, thu thập đầy đủ chứng cứ, chưa đánh giá đúng tính chất của vụ án và đưa thiếu người vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là vi phạm thủ tục tố tụng. Cấp phúc thẩm không thể khắc phục được.

Do vậy, cần hủy bản án dân sự sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung, nhằm bảo đảm quyền lợi cho các đương sự.

Do hủy Bản án sơ thẩm nên chưa xem xét đến kháng cáo của bị đơn ông Nghiêm Văn M.

[4] Về án phí:

Do hủy Bản án sơ thẩm nên bị đơn ông Nghiêm Văn M không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Án phí dân sự sơ thẩm sẽ được xem xét khi vụ án được giải quyết tại cấp sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 43/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 về việc “Tranh chấp Hợp đồng mua bán tài sản; Hợp đồng thi công và yêu cầu bồi thường thiệt hại” giữa nguyên đơn ông Trần Hải D với bị đơn ông Nghiêm Văn M, bà Nguyễn Bích T.

Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố L giải quyết lại theo qui định của pháp luật.

2. Về án phí:

Bị đơn ông D Văn M không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Về án phí dân sự sơ thẩm, sẽ được xem xét khi vụ án được tiếp tục giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 22/2024/DS-PT

Số hiệu:22/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về