Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 186/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 186/2023/DS-PT NGÀY 21/06/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN 

Ngày 21 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 108/2023/TLPT-DS ngày 06 tháng 4 năm 2023 về việc: Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 11/2023/DS-ST ngày 31/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện U Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2023/QĐ-PT ngày 15 tháng 5 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trần Văn D, sinh năm: 1972 (có mặt);

- Bị đơn: Ông Mạc Phú Q, sinh năm: 1968 (vắng mặt).

Bà Phạm Thị L, sinh năm: 1980 (có mặt). Cùng địa chỉ: Ấp 1, xã K, huyện U, tỉnh C ..

- Người kháng cáo: Bị đơn ông Mạc Phú Q và bà Phạm Thị L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 05 tháng 9 năm 2022, quá trình tố tụng nguyên đơn ông Trần Văn D trình bày: Ông có bán nước đá cho vợ chồng ông Q, bà L nhiều lần, cuối năm 2021 có cộng lại và làm biên nhận số tiền còn nợ lại là 103.646.000 đồng và số tiền thiếu nhưng không có biên nhận là hơn 8.000.000 đồng, tổng cộng là 117.000.000 đồng. Ông có đòi vợ chồng bà L, ông Q nhiều lần số tiền còn nợ nhưng vợ chồng ông Q, bà L không trả nên ông yêu cầu ông Mạc Phú Q và bà Phạm Thị L phải trả cho ông tổng cộng số tiền là 117.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, ông Trần Văn D trình bày: Ông Q, bà L có thiếu tiền mua nước đá của ông tổng cộng là 119.000.000 đồng nhưng chỉ làm biên nhận hơn 103.000.000 đồng nay ông yêu cầu bà L, ông Q trả số tiền nợ mua nước đá còn thiếu 103.000.000 đồng, còn số tiền thiếu không biên nhận và tiền mau cối xay yêu cầu sau.

- Tại biên bản hòa giải ngày 09/12/2022, bị đơn bà Phạm Thị L trình bày: Bà có thiếu tiền mua bán với ông Trần Văn D có thiếu tiền và làm biên nhận cho ông D số tiền thiếu là 103.646.000 đồng. Bà đồng ý trả số tiền đã làm biên nhận cho ông D, số tiền còn thiếu chưa làm biên nhận hơn 8.000.000 đồng đã tính toán riêng với vợ ông D nên trả sau. Hiện do điều kiện khó khăn nên yêu cầu được trả hàng tháng, mỗi tháng bà đồng ý trả mỗi tháng 4.000.000 đồng cho đến khi hết nợ, thời gian trả từ ngày 20/01/2023.

-Tại văn bản ý kiến của bị đơn ngày 12/12/2022, bị đơn ông Mạc Phú Q trình bày về việc trả nợ ông D, theo đó ông Q cho rằng không có khả năng trả mỗi tháng 4.000.000 đồng theo thỏa thuận tại biên bản hòa giải ngày 09/12/2022 mà yêu cầu chia nhỏ khoản nợ 103.000.000 đồng trả cho ông D với mức tiền là 1.000.000 đồng tháng.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 11/2023/DS-ST ngày 31/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện U Minh đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn D. Buộc ông Mạc Phú Q và bà Phạm Thị L có trách nhiệm liên đới trả cho ông Trần Văn D số tiền 103.000.000 (Một trăm lẻ ba triệu) đồng.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất do chậm thi hành, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 03/3/2023, bị đơn là chị Phạm Thị L và ông Mạc Phú Q kháng cáo bản án sơ thẩm yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét lại bản án sơ thẩm vì quyết định tuyên xử ông Q, bà L trả cho ông D số tiền 103.000.000 đồng là không có khả năng nên xin xem xét được trả khoản nợ nhiều lần mỗi tháng cho đến khi kết thúc xong khỏan nợ trên.

Tại phiên tòa phúc thẩm phía bị đơn là bà L vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, ông Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử.

Viện kiểm sát nhân tỉnh Cà Mau đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà L, giữ y bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện U Minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét kháng cáo của bị đơn Hội đồng xét xử thấy rằng:

Bị đơn bà L và ông Q kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm với lý do: Do làm ăn thất bại nợ nần, hiện tại không có việc làm nên hoàn cảnh rất khó khăn, Tòa án cấp sơ thẩm buộc trả 01 lần tổng số tiền 103.000.000 đồng là không có khả năng.

Hội đồng xét xử xét thấy nội dung kháng cáo của bị đơn là bà L và ông Q không có cơ sở chấp nhận bởi lẽ:

Ông D khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà L và ông D trả số tiền nợ mua nước đá còn thiếu là 103.000.000 đồng. Phía bị đơn là vợ chồng bà L, ông Q đều thừa nhận thống nhất còn thiếu ông D tổng số tiền mua nước đá là 103.000.000 đồng và thống nhất thanh toán tổng số tiền còn thiếu 103.000.000 đồng như yêu cầu của ông D. Tuy nhiên phía bị đơn ông Q và bà L xin chia nhỏ khoản nợ để trả nhiều lần do hiện tại hoàn cảnh khó khăn không có khả năng thanh toán 01 lần hết số nợ.

Xét thấy quá trình giải quyết cấp sơ thẩm giữa bà L và ông D thống nhất thỏa thuận bị đơn sẽ trả ông D mỗi tháng 4.000.000 đồng. Tuy nhiên phía ông Q không thống nhất và có văn bản ý kiến chỉ đồng ý trả mỗi tháng 1.000.000 đồng. Như vậy giữa các bên đương sự không thỏa thuận thống nhất được phương thức thanh toán số nợ trên, nên Tòa án cấp sơ thẩm không ghi nhận, mà buộc ông Q và bà L có trách nhiệm liên đới trả cho ông D tổngsố tiền 103.000.000 đồng là có cơ sở, đúng qui định pháp luật.

Từ những phân tích nêu trên, án sơ thẩm tuyên xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn của ông Trần Văn D. Buộc ông Mạc Phú Q và bà Phạm Thị L có trách nhiệm liên đới trả cho ông Trần Văn D số tiền 103.000.000 là có căn cứ.

[2] Xét đề nghị giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tại phiên tòa là phù hợp nên được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

Về án phí phúc thẩm: Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn là ông Q và bà L nên bị đơn phải chịu án phí phúc thẩm theo qui định.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn là ông Mạc Phú Q và bà Phạm Thị L.

Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 11/2023/DS-ST ngày 31/01/2023 của Toà án nhân dân huyện U Minh.

Tuyên Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn D. Buộc ông Mạc Phú Q và bà Phạm Thị L có trách nhiệm liên đới trả cho ông Trần Văn D số tiền 103.000.000 (Một trăm lẻ ba triệu) đồng.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thi hành khoản tiền nêu trên thì người phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự

Về án phí sơ thẩm: Ông Mạc Phú Q và bà Phạm Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 5.150.000 (Năm triệu một trăm năm mươi ngàn) đồng.

Hoàn trả ông Trần Văn D tạm ứng án phí số tiền 2.925.000 (Hai triệu chín trăm hai mươi lăm ngàn) đồng theo biên lai thu tiền số 0010754 ngày 18 tháng 10 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.

Án phí phúc thẩm: Ông Mạc Phú Q và bà Phạm Thị L phải chịu là 300.000 đồng, ngày 14/3/2023, ông Q, bà L đã dự nộp 300.000 đồng theo lai thu số 0011027 tại chi cục Thi hành án huyện U Minh được chuyển thu đối trừ.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 186/2023/DS-PT

Số hiệu:186/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về