Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 156/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 156/2021/DS-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 408/2020/TLST-DS ngày 19 tháng 11 năm 2020 về việc tranh chấp “Hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2021/QĐXX-ST ngày 08 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn : Hợp tác xã chế biên thức ăn chăn nuôi A.

Trụ sở: ấp M, xã N, thành phố X, tỉnh Tiền Giang.

Đại diện theo pháp luật: Ông Lê Huỳnh Minh A1 – Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Hồng A2, sinh năm 1949 – Kế toán. (có mặt) Địa chỉ: ấp M1, xã N1, huyện Y, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn:

1/ Ông Nguyễn Hoàng B, sinh năm 1944. (vắng mặt)

2/ Bà Nguyễn Thị Bạch B1, sinh năm 1957. (vắng mặt)

3/ Anh Nguyễn Thành B2, sinh năm 1980. (vắng mặt) Cùng địa chỉ: ấp M2, xã N2, huyện Y, Tiền Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Đại diện nguyên đơn – ông Phạm Hồng A2 trình bày:

Hợp tác xã A và anh Nguyễn Thành B2 có quan hệ mua bán thức ăn chăn nuôi từ năm 2013, theo đó anh B2 mua thức ăn chăn nuôi của hợp tác xã. Giao dịch mua bán giữa các bên có lập “Thỏa thuận mua bán hàng hóa”, giao dịch mua bán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản nhưng trong quá trình mua bán, đôi lúc anh B2 có khó khăn nên phía hợp tác xã nhiều lần cho anh B2 nợ lại tiền mua thức ăn. Tính đến ngày 29/10/2019, số tiền anh B2 còn nợ là 145.638.000 đồng. Hợp tác xã nhiều lần yêu cầu anh B2 thanh toán nợ nhưng anh không thực hiện.

Anh B2 sinh sống cùng với cha mẹ là ông B, bà B1 tại ấp M2, xã N2, huyện Y nên hợp tác xã cho rằng nguồn thu từ việc anh B2 chăn nuôi và bán lại thức ăn chăn nuôi cho các khách hàng lân cận cũng có đóng góp vào kinh tế của gia đình. Bên cạnh đó, trong quá trình giao dịch giữa hợp tác xã và anh B2, bà B, ông B1 cũng nhiều lần đứng ra trả nợ thay cho anh B2. Vì vậy, hợp tác xã khởi kiện yêu cầu anh B2, bà B1, ông B liên đới thanh toán số tiền nợ 145.638.000 đồng và tiền lãi theo mức lãi suất 0,83%/tháng, tính từ ngày 29/10/2019 đến ngày Tòa án xét xử, tạm tính 14.563.800 đồng, tổng cộng số tiền 160.201.800 đồng, yêu cầu trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Bị đơn Nguyễn Thành B2 trình bày:

Tôi thừa nhận có giao dịch mua thức ăn chăn nuôi heo của hợp tác xã A. Hiện nay còn nợ số tiền 145.638.000 đồng đúng như phía hợp tác xã trình bày. Tôi đồng ý trả cho HTX A số tiền gốc 145.638.000 đồng và tiền lãi phát sinh 14.563.800 đồng, tính từ ngày 29/10/2019 đến ngày 29/10/2020, tổng cộng vốn lãi là 160.201.800 đồng, tuy nhiên do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên xin trả nợ dần mỗi tháng 3.000.000 đồng đến khi hết nợ.

*Bị đơn ông Nguyễn Hoàng B trình bày:

Ông là cha ruột của anh B2. Anh B2 là đại lý mua thức ăn gia súc của HTX A. Ông thừa nhận anh B2 còn nợ HTX A. Với trách nhiệm là cha hiện cùng chung sống trong gia đình, vợ chồng ông đã bảo lãnh, trước đây trả thay cho anh B2 một phần nợ, nay đồng ý tiếp tục bảo lãnh và cùng với anh B2 trả cho HTX A số tiền gốc 145.638.000 đồng và tiền lãi phát sinh 14.563.800 đồng, tính từ ngày 29/10/2019 đến ngày 29/10/2020, tổng cổng vốn lãi là 160.201.800 đồng, tuy nhiên do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên xin trả nợ dần mỗi tháng 3.000.000 đồng đến khi hết nợ.

*Nguyên đơn HTX A trình bày: Không đồng ý theo hình thức trả chậm của anh B2, ông B bởi số nợ nay đã kéo dài, đã làm thiệt thòi đến quyền lợi của HTX. Vẫn giữ nguyên ý kiến yêu cầu anh B2, ông B, bà B1 liên đới trả cho HTX A số tiền 160.201.800 đồng khi án có hiệu lực pháp luật.

*Bà Nguyễn Thị Bạch B1 vắng mặt không có lý do nên không có bản khai và trình bày trong phiên hòa giải.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả thẩm vấn công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về pháp luật tố tụng: Bị đơn là anh Nguyễn Thành B2, ông Nguyễn Hoàng B, bà Nguyễn Thị Bạch B1 cư trú tại ấp M2, xã N2, huyện Y, tỉnh Tiền Giang nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo theo điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Anh Nguyễn Thành B2, ông Nguyễn Hoàng B, bà Nguyễn Thị Bạch B1 mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 228 Bộ luật dân sự xử vắng mặt anh B2, ông B, bà B1.

[2] Giữa Hợp tác xã (HTX) chế biến thức ăn chăn nuôi A và anh Nguyễn Thành B2 có giao dịch dân sự trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện.

Đại diện Hợp tác xã chế biến thức ăn chăn nuôi A và anh Nguyễn Thành B2 trình bày: Hợp tác xã chế biến thức ăn chăn nuôi A là bên bán, anh Nguyễn Thành B2 là bên mua đã ký hợp đồng nhiều hợp đồng mua bán thức ăn chăn nuôi từ năm 2013 theo hình thức trả tiền mặt, gối đầu. Hai bên thống nhất thừa nhận tính đến ngày 29/10/2019 anh B2 còn nợ HTX tổng số tiền 145.638.000 đồng. HTX yêu cầu anh B2 và cha mẹ của anh B2 là ông B, bà Nguyệt có nghĩa vụ liên đới trả số tiền vốn gốc và lãi suất tính 0,83%/ tháng tính từ ngày 29/10/2019 đến khi Tòa án xét xử. Anh B2, ông B đồng ý trả nợ theo yêu cầu của HTX nhưng trình bày do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên xin trả chậm mỗi tháng 3.000.000 đồng đến khi hết nợ.

Tại phiên tòa, đại diện ủy quyền của Hợp tác xã trình bày giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của HTX yêu cầu Nguyễn Thành B2, Nguyễn Hoàng B, Nguyễn Thị Bạch B1 trả cho Hợp tác xã số tiền 168.663.077 đồng, trong đó tiền vốn gốc là 145.638.000 đồng và tiền lãi là 23.025.077 đồng.

Xét thấy bên bán là HTX chế biến thức ăn chăn nuôi A đã giao hàng hóa là thức ăn chăn nuôi cho anh Nguyễn Thành B2; anh B2 đã nhận đủ hàng hóa nhưng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền theo đúng thời hạn, địa điểm và mức tiền được thỏa thuận giữa hai bên là vi phạm nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 440 Bộ luật dân sự năm 2015 nên việc khởi kiện của HTX là có cơ sở.

Khoản 3 Điều 440 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp bên mua không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền thì phải trả lãi trên số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật này”. Tại phiên tòa đại diện ủy quyền của HTX yêu cầu tính lãi trên số tiền chậm trả là có căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét.

Việc anh B2, ông B trình bày hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn xin trả dần mỗi tháng 3.000.000 đồng đến khi hết nợ đã không được đại diện ủy quyền của HTX chấp nhận nên không có cơ sở để Hội đồng xét xử xem xét.

Xét thấy việc ký kết và trực tiếp thực hiện hợp đồng mua bán thức ăn chăn nuôi với HTX là anh Nguyễn Thành B2. HTX đã không có chứng cứ nào có giá trị pháp lý để chứng minh có việc tham gia ký kết, thực hiện hợp đồng mua bán thức ăn chăn nuôi của ông Nguyễn Hoàng B, bà Nguyễn Thị Bạch B1 với HTX nên không có cơ sở để buộc ông B, bà B1 có nghĩa vụ liên đới. Tuy nhiên, trong Biên bản hòa giải ngày 11/3/2021 tại Tòa án và tại phiên tòa ông B đã tự nguyện có trách nhiệm cùng với anh B2 trả nợ cho HTX. Xét đây là ý chí tự nguyện và không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về án phí: Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

-Áp dụng Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

-Áp dụng Điều 430, Điều 440, Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

-Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử :

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Hợp tác xã chế biến thức ăn chăn nuôi A. Buộc anh Nguyễn Thành B2, ông Nguyễn Hoàng B có nghĩa vụ liên đới trả cho Hợp tác xã chế biến thức ăn chăn nuôi A số tiền 168.663.077 đồng (Một trăm sáu mươi tám triệu sáu trăm sáu mươi ba nghìn không trăm báy mươi bảy đồng), trong đó tiền vốn gốc là 145.638.000 đồng và tiền lãi là 23.025.077 đồng, trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày Hợp tác xã chế biến thức ăn chăn nuôi A có đơn yêu cầu thi hành án nếu anh Nguyễn Thành B2, ông Nguyễn Hoàng B chậm trả tiền thì anh B2, ông B còn phải trả lãi theo lãi suất được quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

2.Án phí:

-Anh Nguyễn Thành B2, ông Nguyễn Hoàng B phải chịu 8.433.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

-Hợp tác xã chế biến thức ăn chăn nuôi A phải chịu 300.000 đồng án phí DSST, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 4.005.000 đồng theo biên lai thu số 0004398 ngày 17/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang nên HTX chế biến thức ăn chăn nuôi A được hoàn lại 3.705.000 đồng.

Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 156/2021/DS-ST

Số hiệu:156/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về