Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 124/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 124/2022/DS-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Trong ngày 16 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 137/2022/TLST-DS ngày 27 tháng 4 năm 2022 về việc tranh chấp “Hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 349/2022/QĐST-DS ngày 11 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 472/2022/QĐST-DS ngày 31 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hương M; địa chỉ: Khóm B, phường Đ, thành phố L, tỉnh An Giang;

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn:

Bà Phạm Thị Như B, sinh năm 1978; chức vụ: Giám đốc công ty; là người đại diện theo pháp luật.

Bà Nguyễn Thị Việt B1, sinh năm 1979; nơi cư trú: Đ, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang; là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn; có mặt - Bị đơn: Ông Trịnh Văn K, sinh năm 1965; nơi cư trú: ấp M, xã N, huyện C, tỉnh An Giang; xin vắng mặt;

Bà Lê Thị Kim L, sinh năm 1966; nơi cư trú: ấp M, xã N, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt,

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai nguyên đơn Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hương M trình bày: Ngày 12/12/2018, ông Trịnh Văn K có đến Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hương M mua thuốc thú y và thức ăn chăn nuôi cá, giữa công ty và ông Trịnh Văn K có làm hợp đồng mua bán, công ty đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ là giao thuốc thú y và thức ăn cho ông Trịnh Văn K. Khi giao thuốc thú y và thức ăn ông K có ký tên vào tờ xác nhận giao hàng. Thời gian này ông K thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng cho công ty đầy đủ. Năm 2014, ông K vi phạm nghĩa vụ thanh toán cho công ty nên công ty ngưng cung cấp thuốc thú y và thức ăn cho ông K và công ty đã đối chiếu công nợ với ông K. Ngày 31/12/2014 ông K còn nợ công ty số tiền 120.264.500, ông K có ký tên xác nhận vào công nợ. Ngày 17/02/2015 ông K trả cho công ty 15.000.000 đồng; ông K còn nợ lại số tiền 105.264.500 đồng đồng, ông K mua thuốc thú y và thức ăn nuôi ca là để chăm lo cho cuộc sống gia đình. Nay Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hương M yêu cầu ông Trịnh Văn K, bà Lê Thị Kim L có trách nhiệm liên đới trả cho Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hương M số tiền còn nợ 105.264.500 đồng đồng, yêu cầu ông Trịnh Văn K, bà Lê Thị Kim L phải trả lãi cho Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hương M mức lãi 1%/tháng đối với việc chậm thanh toán số tiền nợ gốc 105.264.500 đồng đồng kể từ ngày 17/02/2015 đến ngày xét xử sơ thẩm.

Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện ủy quyền của Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hương M trình bày: Ngày 12/12/2018, ông Trịnh Văn K có đến Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hương M mua thuốc thú y và thức ăn chăn nuôi cá, giữa công ty và ông Trịnh Văn K có làm hợp đồng mua bán, công ty đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ là giao thuốc thú y và thức ăn cho ông Trịnh Văn K. Khi giao thuốc thú y và thức ăn ông K có ký và tờ xác nhận giao hàng. Thời gian này ông K thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng cho công ty đầy đủ. Năm 2014, ông K vi phạm nghĩa vụ thanh toán cho công ty nên công ty ngưng cung cấp thuốc thú y và thức ăn cho ông K và công ty đã đối chiếu công nợ với ông K. Ngày 31/12/2014 ông K còn nợ công ty số tiền 120.264.500, ông K có ký tên xác nhận vào công nợ. Ngày 17/02/2015 ông K trả cho công ty 15.000.000 đồng; ông K còn nợ lại số tiền 105.264.500 đồng đồng, ông K mua thuốc thú y và thức ăn nuôi ca là để chăm lo cho cuộc sống gia đình. Nay Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hương M yêu cầu ông Trịnh Văn K, bà Lê Thị Kim L có trách nhiệm liên đới trả cho Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hương M số tiền còn nợ 105.264.500 đồng đồng, yêu cầu ông Trịnh Văn K, bà Lê Thị Kim L phải trả lãi cho Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hương M mức lãi 1%/tháng đối với việc chậm thanh toán số tiền nợ gốc 105.264.500 đồng đồng kể từ ngày 17/02/2015 đến ngày xét xử sơ thẩm.

Tại tờ tự khai ông Trịnh Văn K trình bày: Ông không nhớ chính xác thời gian nhưng năm 2013 ông có đến Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hương M mua thuốc thú y và thức ăn gia súc để nuôi cá, ông chăn nuôi cá sinh lời là để chăm lo sinh hoạt gia đình, do cá bị chết nên thua lỗ đến nay chưa trả được tiền còn nợ công ty. Ông thừa nhận còn nợ Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hương M số tiền 105.264.500 đồng. Số tiền nợ Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hương M vợ ông là bà Lê Thị Kim L biết. Do bận công việc nên ông xin được vắng mặt tại phiên xét xử của Tòa án, do khó khăn khi nào có tiền ông sẽ trả Bà Lê Thị Kim L đã được tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà L vắng mặt không rõ lý do nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.

Tại phiên tòa: Người đại diện ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên ý kiến như đã trình bày, xin được rút yêu cầu tính lãi 1%/tháng đối với việc chậm thanh toán số tiền nợ gốc 105.264.500 đồng đồng kể từ ngày 17/02/2015 đến ngày xét xử sơ thẩm.

Bị đơn ông Trịnh Văn K có đơn xin xét xử vắng mặt Bị đơn bà Lê Thị Kim L vắng mặt không rõ lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 288, 430, 440, 468 Bộ luật dân sự, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hương Mê Kông.

Buộc ông Trịnh Văn K, bà Lê Thị Kim L có trách nhiệm liên đới trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Hương M số tiền 105.264.500 đồng đồng; Đình chỉ yêu cầu tính lãi của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

* Về tố tụng:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án nguyên đơn khởi kiện bị đơn yêu cầu trả số tiền mua thuốc thú y và thức ăn gia súc còn nợ cho nguyên đơn đây là tranh chấp dân sự hợp đồng mua bán tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn có nơi cư trú tại xã N, huyện C, tỉnh An Giang. Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng theo quy định Điều 26; 35; 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ pháp luật: Công ty trách nhiệm hữu hạn Hương M khởi kiện yêu cầu ông Trịnh Văn K, bà Lê Thị Kim L trả số tiền mua thuốc thú y và thức ăn nuôi cá còn nợ. Đây là quan hệ tranh chấp về dân sự theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án thụ lý quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản.

[3]. Về tư cách, sự vắng mặt của đương sự: Căn cứ Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn Hương Mê Kông, bị đơn ông Trịnh Văn K, bà Lê Thị Kim L.

Trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa hôm nay người đại diện họp pháp của nguyên đơn có mặt; bị đơn ông K xin vắng mặt, bà L vắng mặt. Do đó, căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự nên Tòa án tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.

[4]. Về thu thập chứng cứ:

Nguyên đơn cung cấp giấy nhận công nợ ngày 31/12/2014, Tòa án đã tiến hành thủ tục thông báo kết quả phiên họp cho bị đơn nhưng bị đơn không có ý kiến phản đối về chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp, bị đơn ông Trịnh Văn K cũng thừa nhận số tiền còn nợ với nguyên đơn. Căn cứ Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp, thừa nhận nợ của bi đơn là chứng cứ để giải quyết vụ án.

* Về nội dung vụ án:

[5]. Về hợp đồng, yêu cầu khởi kiện: Công ty trách nhiệm hữu hạn Hương Myêu cầu vợ chồng ông K, bà L trả số tiền 105.264.500 đồng theo biên bản xác nhận công nợ ngày 31/12/2014. Tại tờ tự khai của nguyên đơn, trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện ủy quyền của nguyên đơn bà Bình xác định nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn Hương Mcó hợp đồng mua bán thuốc thú y và thức ăn nuôi cá với ông K, bà L. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông K, ông K thừa nhận còn nợ số tiền theo yêu cầu của công ty, bà L không có ý kiến phản đối lại yêu cầu của nguyên đơn. Do ông K, bà L không thục hiện đúng nghĩa vụ đã giao kết, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hương Mê Kông. Căn cứ Điều 430, Điều 440 Bộ luật dân sự 2015 bị đơn có trách nhiệm trả cho nguyên đơn số tiền còn nợ 105.264.500 đồng.

[6]. Trách nhiệm liên đới: Công ty trách nhiệm hữu hạn Hương Mê Kông, người đại diện ủy quyền của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hương Mcho rằng đây là nợ chung của ông K, bà L nên ông K, bà L có trách nhiệm liên đới trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Hương Msố tiền còn nợ. Tại tờ tự khai của ông K thể hiện ông và bà L sống chung với nhau như vợ chồng và bà L biết số nợ này, việc ông mua thuốc thú y và thức ăn nuôi có là để lo sinh hoạt gia đình. Do đó căn cứ Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 288 Bộ luật dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử buộc ông K, bà L có trách nhiệm liên đới trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Hương Msố tiền 105.264.500 đồng.

[7].Về yêu cầu tính lãi: Công ty trách nhiệm hữu hạn Hương Myêu cầu tính lãi 1%/tháng đối với việc chậm thanh toán số tiền nợ gốc 105.264.500 đồng kể từ ngày 17/02/2015 đến ngày xét xử sơ thẩm.

Tại phiên tòa, người đại diện ủy quyền của nguyên đơn việc rút lại yêu cầu tính lãi lãi 1%/tháng đối với việc chậm thanh toán số tiền nợ gốc 105.264.500 đồng kể từ ngày 17/02/2015 đến ngày xét xử sơ thẩm, Xét thấy, việc rút lại yêu cầu cầu tính lãi 1%/tháng đối với việc chậm thanh toán số tiền nợ gốc 105.264.500 đồng kể từ ngày 17/02/2015 đến ngày xét xử sơ thẩm là hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của pháp luật và có lợi cho bị đơn, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 217, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu bị đơn trả số tiền lãi 1%/tháng đối với việc chậm thanh toán số tiền nợ gốc 105.264.500 đồng kể từ ngày 17/02/2015 đến ngày xét xử sơ thẩm [8]. Từ những cơ sở phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc ông K, bà L có trách nhiệm liên đới trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Hương M số tiền vốn 105.264.500 đồng, đình chỉ yêu cầu tính lãi của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới về quan điểm giải quyết án.

[9]. Về án phí dân sự sơ thẩm Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn được nhận lại số tiền tạm ứng án phí.

Bị đơn phải chịu án phí theo quy định pháp luật Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 26, 35, 39, 68, 92, 144, 147, 217, 227, 228, 244 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 288, 430, 440, 468 của Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 27 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn Hương M.

Buộc ông Trịnh Văn K, bà Lê Thị Kim L có trách nhiệm liên đới trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Hương M số tiền vốn 105.264.500 (một trăm lẻ năm triệu hai trăm sáu mươi bốn nghìn năm trăm) đồng.

Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu tính lãi 1%/tháng đối với việc chậm thanh toán số tiền nợ gốc 105.264.500 (một trăm lẻ năm triệu hai trăm sáu mươi bốn nghìn năm trăm) đồng kể từ ngày 17/02/2015 đến ngày xét xử sơ thẩm Về án phí: Ông Trịnh Văn K, bà Lê Thị Kim L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 5.263.000 (năm triệu hai trăm sáu mươi ba nghìn) đồng.

Công ty trách nhiệm hữu hạn Hương M được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 2.631.000 (hai triệu sáu trăm ba mươi mốt nghìn) đồng theo biên lai số 0004540 ngày 27 tháng 4 năm 2022 của chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.

Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 124/2022/DS-ST

Số hiệu:124/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về