TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 122/2023/DS-PT NGÀY 12/06/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 6 năm 2023, tại Phòng xét xử số 03 – Trụ sở Tòa án nhân dân Tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 74/2023/TLPT-DS ngày 03 tháng 02 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, tranh chấp hợp đồng tín dụng và thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại” Do bản án dân sự sơ thẩm số 28/2022/DS-ST ngày 15 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 107/2023/QĐPT-DS ngày 29 tháng 3 năm 2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà H Kim Yến, sinh năm 1979 Địa chỉ: 2370, Tổ 1, ấp Phương M, xã Phú Lâm, huyện Tân Phú, Tỉnh Đồng Nai.
- Bị đơn: Ông Phan Hồng H, sinh năm 1970 Địa chỉ: Ấp T, xã Phú Thanh, huyện Tân Phú, Tỉnh Đồng Nai.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T (Tên viết tắt: S) Địa chỉ trụ sở: 266 – 268, đường K, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh H – Chức vụ: Phó Giám đốc S – Chi nhánh Long Khánh, Phòng Giao dịch L (Theo QĐ số 3163/2021/QĐ-PL ngày 27/12/2021 V/v ký hợp đồng và thẩm quyền tham gia tố tụng).
2/ Chị Phan Thị Lệ T, sinh năm 1997
3/ Anh Phan Tường V, sinh năm 2000 4/ Cháu Phan Hồng P, sinh ngày 16/8/2006 Địa chỉ: Ấp T, xã Phú Thanh, huyện Tân Phú, Tỉnh Đồng Nai.
(Người đại diện hợp pháp cho cháu P là ông Phan Hồng H)
5/ Bà Lê Thị P – sinh năm 1939 Địa chỉ: Số nhà 25, Tổ 5, Thôn 5, xã K, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận.
6/ Bà H Thu T – sinh năm 1984 Nơi cư trú: Tổ 1, ấp Phương M, xã Phú Lâm, huyện Tân Phú, Tỉnh Đồng Nai.
(Bị đơn ông H có mặt; các đương sự khác có đơn xin vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn bà H Kim Yến trình bày:
Bà Y có quen biết và có bán thức ăn chăn nuôi và thuốc thú y với vợ chồng ông Phan Hồng H, bà Nguyễn Thị L (sinh năm 1976, đã chết ngày 26/9/2019).
Từ năm 2016 cho đến ngày 26/10/2019, ông H và bà L còn nợ tổng số tiền thức ăn chăn nuôi gia súc gia cầm là 325.880.000đ (Ba trăm hai mươi lăm triệu tám trăm tám mươi nghìn đồng). Theo “Giấy xác nhận công nợ” ngày 26/10/2019 ông H ký chốt nợ số tiền cám với bà H Thu T (là em ruột bà Y, phụ trách mua bán cám cho bà Y) số tiền 325.880.000đ (Ba trăm hai mươi lăm triệu tám trăm tám mươi nghìn đồng). Tại mặt sau giấy này đã ghi phía ông H trả tiền hai lần vào ngày 26/10/2019 là 5.000.000đ và ngày 29/10/2019 là 30.000.000đ. Từ năm 2016 cho đến ngày 26/10/2019, ông H và bà L còn nợ tổng số tiền thuốc thú y là 207.300.000đ (Hai trăm lẻ bảy triệu ba trăm nghìn đồng). Theo “Giấy xác nhận công nợ” ngày 26/10/2019, ông H ký chốt nợ với bà Y số tiền thuốc thú y là 207.300.000đ (Hai trăm lẻ bảy triệu ba trăm nghìn đồng).
Tổng cộng số tiền ông H, bà L còn nợ là 533.180.000đ (Năm trăm ba mươi ba triệu một trăm tám mươi nghìn đồng). Tuy nhiên, trừ đi số tiền đã trả là 5.000.000đ và 30.000.000đ thì còn lại là 498.180.000đ (Bốn trăm chín mươi tám triệu một trăm tám mươi nghìn đồng).
Do nhiều lần yêu cầu trả nợ nhưng phía ông H cùng các con chưa trả số tiền nợ gốc mua bán tài sản và tiền lãi chậm trả cho bà Y từ ngày chốt nợ 26/10/2019.
Bà Y khởi kiện và sửa đổi, bổ sung, rút một phần yêu cầu khởi kiện nội dung như sau: Bà Y khởi kiện yêu cầu bị đơn ông H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phan Thị Lệ T, anh Phan Tường V, cháu Phan Hồng P, bà Lê Thị P có nghĩa vụ trả cho bà Y số tiền là 498.180.000đ (Bốn trăm chín mươi tám triệu một trăm tám mươi nghìn đồng) và tiền lãi 10%/năm tính từ ngày chốt nợ 26/10/2019 đến ngày giải quyết xong vụ án; cụ thể trong đó ông H có nghĩa vụ trả một nửa tiền gốc và một nửa tiền lãi, còn ông H, chị T, anh V, cháu P, bà P có nghĩa vụ liên đới trả một nửa tiền gốc và một nửa tiền lãi. Bà Y rút yêu cầu khởi kiện đối với số tiền gốc 35.000.000đ (Ba mươi lăm triệu đồng).
Ngoài ra, bà Y không khởi kiện nội dung nào khác. Đối với số tiền bà Y khởi kiện trong vụ án là tài sản riêng của cá nhân bà không liên quan đến ai khác.
Bị đơn ông Phan Hồng H trình bày:
Ông H và Liên là vợ chồng, có con chung là Phan Thị Lệ T, Phan Tường V, Phan Hồng P; đối với cháu P thì chưa thành niên thì ông H là người đại diện hợp pháp trình bày và tham gia tố tụng. Bố mẹ bà L là ông Nguyễn Học (đã chết năm 2000) và bà Lê Thị P.
Ông H và bà Nguyễn Thị L có mua bán tài sản là cám gia súc và thuốc thú y của bà Y, do vợ ông H trực tiếp thanh toán việc mua bán.
Ông H thừa nhận sau khi bà L chết ngày 26/9/2019 thì ông có ký chốt nợ còn lại là 533.180.000đ (Năm trăm ba mươi ba triệu một trăm tám mươi nghìn đồng) theo 02 (hai) “Giấy xác nhận công nợ” cùng ngày 26/10/2019, trong đó tiền cám là 325.880.000đ và tiền thuốc thú y là 207.304.500đ (nhưng làm tròn là 207.300.000đ), tuy nhiên đối với số tiền 325.880.000đ thì ông H đồng ý mặt sau đã ghi trả hai lần ngày 26/10/2019 là 5.000.000đ và ngày 29/10/2019 là 30.000.000đ, như vậy còn lại là 498.180.000đ (Bốn trăm chín mươi tám triệu một trăm tám mươi nghìn đồng).
Ông H cho rằng đối với số tiền ký nhận 02 (hai) “Giấy xác nhận công nợ” ngày 26/10/2019 thì ông H chưa được đối chiếu sổ sách của bà Y, thời điểm đó bà L mới mất, ông đầu óc không tỉnh táo mới đồng ý ký xác nhận.
Bà Y khởi kiện đối với nợ tiền gốc là 498.180.000đ (Bốn trăm chín mươi tám triệu một trăm tám mươi nghìn đồng) và tiền lãi 10%/năm từ ngày chốt nợ 26/10/2019 đến ngày giải quyết xong vụ án theo 02 (hai) “Giấy xác nhận công nợ” cùng ngày 26/10/2019 thì ông H đề nghị nếu đúng chính xác số nợ thì ông đồng ý trả và giải quyết theo quy định của pháp luật.
Ông H và bà L có quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 249, tờ bản đồ số 16 xã Phú Thanh (tài sản gắn liền với đất có 01 căn nhà cấp 4 và trang trại nuôi heo), ông bà có thế chấp tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn T – Chi nhánh Long Khánh, Phòng Giao dịch L số tiền 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng) hiện vẫn chưa thanh toán. Đối với tài sản này thì ông H không thế chấp cho khác, hiện ông H quản lý, sử dụng chứ không cho ai thuê, quản lý sử dụng và không liên quan đến ai khác. Ông H đang sinh sống cùng các con trên đất.
Đối với yêu cầu độc lập của S thì ông H thừa nhận ông và bà L có nợ nên đồng ý có trách nhiệm trả tiền cho ngân hàng theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T (Tên viết tắt: S) do người đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Minh H trình bày:
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T có cho bị đơn ông Phan Hồng H và bà Nguyễn Thị L vay vốn theo Hợp đồng tín dụng số LD1815100524 ngày 01/06/2018 và Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung Hợp đồng tín dụng số LD1815100524-01 ngày 10/06/2019, Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 14/6/2018 với số tiền vay là 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng) và số tiền nợ thẻ tín dụng là 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng), mục đích vay bổ sung vốn sản xuất nông nghiệp, thời hạn vay là 12 (mười hai) tháng tính từ ngày giải ngân, gia hạn thời hạn đến ngày 12/06/2020, lãi suất 12%/năm áp dụng cho 03 tháng đầu tiên, kể từ tháng thứ 04 lãi suất được điều chỉnh định kỳ 03 tháng/lần bằng lãi suất huy động tiết kiệm cá nhân VNĐ kỳ hạn 12 tháng trả lãi cuối kỳ của S tại thời điểm điều chỉnh cộng biên độ hàng năm; lãi trả hàng tháng, gốc trả cuối kỳ.
Để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán, ông H và bà L có thế chấp đối với Quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 249, tờ bản đồ số 16 xã Phú Thanh, huyện Tân Phú, Tỉnh Đồng Nai theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số 1381-2510/TC ngày 01/6/2018.
Quá trình thực hiện hợp đồng, tính đến ngày 17/6/2022 thì ông H đã vi phạm hợp đồng tín dụng do chậm trả nợ tiền vay đến hạn trong khi không có phương án khả thi để thanh toán nợ. Do bà Liên đã chết năm 2019, nên ông H có trách nhiệm trả một nửa tiền và hàng thừa kế của bà L là ông H và chị T, anh V, cháu P, bà P có trách nhiệm liên đới trả một nửa số tiền nợ của bà L (thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại).
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T khởi kiện (yêu cầu độc lập) yêu cầu bị đơn ông Phan Hồng H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phan Thị Lệ T, anh Phan Tường V, cháu Phan Hồng P, bà Lê Thị P có nghĩa vụ trả số tiền vay tính đến ngày 17/6/2022 là 677.648.346đ (Sáu trăm bảy mươi bảy triệu sáu trăm bốn mươi tám nghìn ba trăm bốn mươi sáu đồng), trong đó bao gồm tiền nợ gốc là 484.940.000đ và tiền nợ lãi là 180.708.346đ, dư nợ thẻ tín dụng là 12.000.000đ theo Hợp đồng tín dụng số LD1815100524 ngày 01/06/2018, Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 14/6/2018 và Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung Hợp đồng tín dụng số LD1815100524-01 ngày 10/06/2019; đồng thời còn tiếp tục phải chịu khoản tiền lãi quá hạn theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận cho đến khi trả xong số tiền còn nợ; cụ thể trong đó ông H có nghĩa vụ trả một nửa tiền gốc và một nửa tiền lãi, còn ông H, chị T, anh V, anh Phát, bà Phần có nghĩa vụ liên đới trả một nửa tiền gốc và một nửa tiền lãi.
Trường hợp ông H và chị T, anh V, cháu P, bà P không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ, thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ đối với: Quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 249, tờ bản đồ số 16 xã Phú Thanh, huyện Tân Phú (Ủy ban nhân dân huyện Tân Phú cấp ngày 02/04/2013 cho ông Phan Hồng H và bà Nguyễn Thị L) theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số 1381-2510/TC ngày 01/6/2018 (Chứng nhận việc thế chấp đã được đăng ký ngày 04/6/2018 tại Văn phòng Đăng ký đất đai Tỉnh Đồng Nai – Chi nhánh huyện Tân Phú).
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì đề nghị Tòa án tiếp tục giải quyết theo quy định của pháp luật.
Đối với tài sản là diện tích đất theo bản vẽ số 1410/2021 ngày 21/12/2021 của Văn phòng Đăng ký đất đai Tỉnh Đồng Nai – Chi nhánh Tân Phú và giá trị tài sản theo chứng thư Chứng thư thẩm định giá số 916/6/CT-ĐNI ngày 04/4/2022 của Công ty Cổ phần Thẩm định giá N; thì S đồng ý và đề nghị Tòa án tiếp tục giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị P trình bày:
Bà P có chồng là ông Nguyễn Học (sinh năm 1939, đã chết năm 2000) là cha mẹ ruột bà L. Bà không chứng kiến, không liên quan việc vay nợ hoặc mua bán tài sản của ông H, bà Liên. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì bà đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật và không có ý kiến, yêu cầu gì.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà H Thu T trình bày:
Bà T có phụ giúp bán thức ăn gia súc và thuốc thú y cho bà Y. Bà T bán nhận tiền mặt trực tiếp hoặc bán ghi nợ, giao hàng cho ông H bà L. Bà chứng kiến việc ông H, bà Liên đến mua cám và thốc thú y của bà Y nhiều lần nhưng chưa trả tiền.
Đối với việc mua bán thức ăn chăn nuôi gia súc gia cầm thì từ năm 2016 cho đến ngày 26/10/2019 phía ông H, bà L còn nợ tổng số tiền là 325.880.000đ (Ba trăm hai mươi lăm triệu tám trăm tám mươi nghìn đồng), ông H đã ký chốt nợ theo “Giấy xác nhận công nợ” ngày 26/10/2019, do bà T phụ trách mua bán cám cho bà Y nên bà T có ký vào “Bên bán hàng”; đối với mặt sau đã ghi trả hai lần ngày 26/10/2019 là 5.000.000đ và ngày 29/10/2019 là 30.000.000đ là do bà Y ghi chứ bà T không chứng kiến và không nhận các số tiền này mà do phía bà Y nhận tiền.
Đối với việc mua bán thuốc thú y thì bà Y trực tiếp mua bán và chốt nợ với ông H, bà L theo “Giấy xác nhận công nợ” ngày 26/10/2019 với số tiền là 207.300.000đ (Hai trăm lẻ bảy triệu ba trăm nghìn đồng).
Thời điểm ngày 26/10/2019 khi bà Y và bà T chốt nợ với ông H thì có đưa cho ông H xem sổ sách ghi nợ để đối chiếu (do bà Y và bà T ghi lại nhưng không có ký xác nhận của bà L, ông H), sau khi chốt nợ thì ông H đồng ý ký nhận tại 02 (hai) “Giấy xác nhận công nợ” cùng ngày 26/10/2019. Vì vậy bà T, bà Y không còn lưu giữ các giấy tờ sổ sách cũ do đã chốt xong. Việc ông H và bà L có nợ tiền gốc là 533.180.000đ (Năm trăm ba mươi ba triệu một trăm tám mươi nghìn đồng) là đúng sự thật.
Quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị T và anh V không đến Tòa án tham gia tố tụng, khi Tòa án đến trực tiếp tại địa phương thì không gặp được, nên không thu thập được lời khai.
Tại bản án số Dân sự sơ thẩm số 28/2022/DS-ST ngày 15 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú đã quyết định:
Căn cứ vào:
- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 157, khoản 1 Điều 158, Điều 165, khoản 1 Điều 166, Điều 184, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 238 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Điều 117, Điều 351, Điều 357, Điều 385, Điều 401, Điều 429, Điều 430, Điều 440, Điều 463, Điều 466 và Điều 470; Điều 207, Điều 208, Điều 210, Điều 213, Điều 221, Điều 223 và Điều 288; Điều 609, Điều 611, Điều 612, Điều 613, Điều 614, Điều 615, điểm a khoản 1 Điều 651 và Điều 688 Bộ luật dân sự;
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 24, Điều 25, Điều 27, Điều 29, Điều 33, Điều 34, Điều 35, Điều 37, Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Khoản 1, khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; khoản 1 Điều 297, Điều 306 Luật thương mại;
- Điều 5 và Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
- Điều 7 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 04 tháng 4 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Khoản 2, khoản 6 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
1.1 Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà H Kim Yến về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, tranh chấp thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại” đối với bị đơn ông Phan Hồng H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phan Thị Lệ T, anh Phan Tường V, cháu Phan Hồng P, bà Lê Thị P.
1.1.1. Buộc ông Phan Hồng H có nghĩa vụ trả cho bà H Kim Yến số tiền nợ gốc là 249.090.000đ (Hai trăm bốn mươi chín triệu không trăm chín mươi nghìn đồng) và tiền lãi là 71.940.500đ (Bảy mươi mốt triệu chín trăm bốn mươi nghìn năm trăm đồng), tổng cộng là 321.030.500đ (Ba trăm hai mươi mốt triệu không trăm ba mươi nghìn năm trăm đồng).
1.1.2. Buộc ông Phan Hồng H và chị Phan Thị Lệ T, anh Phan Tường V, cháu Phan Hồng P, bà Lê Thị P có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, trả cho bà H Kim Yến số tiền nợ gốc là là 249.090.000đ (Hai trăm bốn mươi chín triệu không trăm chín mươi nghìn đồng) và tiền lãi là 71.940.500đ (Bảy mươi mốt triệu chín trăm bốn mươi nghìn năm trăm đồng), tổng cộng là 321.030.500đ (Ba trăm hai mươi mốt triệu không trăm ba mươi nghìn năm trăm đồng).
1.2. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà H Kim Yến đã rút về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, tranh chấp thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại” đối với số tiền gốc 35.000.000đ (Ba mươi lăm triệu đồng). Hậu quả của việc đình chỉ: Bà Y không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại đối với yêu cầu này.
2. Về yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T (S):
2.1. Chấp nhận phần yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T (S) về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng, tranh chấp thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại” đối với bị đơn ông Phan Hồng H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phan Thị Lệ T, anh Phan Tường V, cháu Phan Hồng P, bà Lê Thị P.
2.1.1. Buộc ông Phan Hồng H có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T số tiền nợ gốc, dư nợ thẻ tín dụng là 248.470.000đ (Hai trăm bốn mươi tám triệu bốn trăm bảy mươi nghìn đồng) và tiền lãi tính đến ngày xét xử 15/9/2022 là 101.088.477đ (Một trăm lẻ một triệu không trăm tám mươi tám nghìn bốn trăm bảy mươi bảy đồng), tổng cộng là 349.558.478đ (Ba trăm bốn mươi chín triệu năm trăm năm mươi tám nghìn bốn trăm bảy mươi tám đồng).
2.1.2. Buộc ông Phan Hồng H và chị Phan Thị Lệ T, anh Phan Tường V, cháu Phan Hồng P, bà Lê Thị P có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T số tiền nợ gốc, dư nợ thẻ tín dụng là 248.470.000đ (Hai trăm bốn mươi tám triệu bốn trăm bảy mươi nghìn đồng) và tiền lãi tính đến ngày xét xử 15/9/2022 là 101.088.477đ (Một trăm lẻ một triệu không trăm tám mươi tám nghìn bốn trăm bảy mươi bảy đồng), tổng cộng là 349.558.478đ (Ba trăm bốn mươi chín triệu năm trăm năm mươi tám nghìn bốn trăm bảy mươi tám đồng).
2.3. Kể từ ngày 16/9/2022 mà ông H, chị T, anh V, cháu P, bà P chưa thanh toán số tiền nợ gốc và nợ lãi phát sinh nêu trên cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T thì ông H, chị T, anh V, cháu P, bà P còn tiếp tục phải chịu khoản tiền lãi quá hạn trên số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số LD1815100524 ngày 01/06/2018, Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 14/6/2018 và Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung Hợp đồng tín dụng số LD1815100524-01 ngày 10/06/2019 (giữa Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T và ông Phan Hồng H, bà Nguyễn Thị L) cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc (Mức lãi suất được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T).
Trường hợp ông H và chị T, anh V, cháu P, bà P không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ đối với: Quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 249, tờ bản đồ số 16 xã Phú Thanh, huyện Tân Phú (Ủy ban nhân dân huyện Tân Phú cấp ngày 02/04/2013 cho ông Phan Hồng H và bà Nguyễn Thị L) và tài sản gắn liền với đất theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số 1381-2510/TC ngày 01/6/2018 (Chứng nhận việc thế chấp đã được đăng ký ngày 04/6/2018 tại Văn phòng Đăng ký đất đai Tỉnh Đồng Nai – Chi nhánh huyện Tân Phú).
Trường hợp ông H và chị T, anh V, cháu P, bà P trả xong nợ và lãi phát sinh mà không cần xử lý tài sản đảm bảo thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T có nghĩa vụ trả lại bản chính Quyền sử dụng đất số BN 128887 (Ủy ban nhân dân huyện Tân Phú cấp ngày 02/04/2013 cho ông Phan Hồng H và bà Nguyễn Thị L) cho ông Phan Hồng H.
3. Về chi phí tố tụng: Bà Y đã nộp chi phí tố tụng tổng cộng là 36.160.000đ (Ba mươi sáu triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng). Ông H có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Y chi phí tố tụng 18.080.000đ (Mười tám triệu không trăm tám mươi nghìn đồng); ông H, chị T, anh V, cháu P, bà P có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Y chi phí tố tụng 18.080.000đ (Mười tám triệu không trăm tám mươi nghìn đồng).
4. Xác định trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết (bà Nguyễn Thị L) để lại của ông H, chị T, anh V, cháu P, bà P là ½ (một nửa) giá trị tài sản chung của ông H, bà L gồm: Quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 249, tờ bản đồ số 16 xã Phú Thanh, huyện Tân Phú (Ủy ban nhân dân huyện Tân Phú cấp ngày 02/04/2013 cho ông Phan Hồng H và bà Nguyễn Thị L) và tài sản gắn liền với đất gồm công trình xây dựng (nhà ở gia đình, chuồng chăn nuôi, ô nuôi lươn, ô nuôi trùng, chuồng gà, giếng khoan, hệ thống xử lý chất thải) và cây xanh.
(Hiện trạng tài sản được mô tả theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 15/12/2021 của Tòa án, Chứng thư Thẩm định giá số 916/6/CT-ĐNI ngày 04/4/2022 của Công ty Cổ phần Thẩm định giá N, Trích lục và biên vẽ thửa đất bản đồ địa chính số 1410/2021 ngày 22/12/2021 của Văn phòng Đăng ký đất đai Tỉnh Đồng Nai – Chi nhánh Tân Phú) 5. Về án phí:
Ông H phải chịu 30.824.000đ (Ba mươi triệu tám trăm hai mươi bốn nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Ông H, chị T, anh V, cháu P, bà P phải chịu 30.824.000đ (Ba mươi triệu tám trăm hai mươi bốn nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Trả lại cho bà Y số tiền 11.106.000đ (Mười một triệu một trăm lẻ sáu nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0003970 ngày 01/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú, Tỉnh Đồng Nai.
Trả lại cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T số tiền 14.000.000đ (Mười bốn triệu đồng) đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0002614 ngày 29/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú, Tỉnh Đồng Nai.
Ngoài ra án còn tuyên về quyền kháng cáo và trách nhiệm thi hành án của đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 10 tháng 10 năm 2022, ông Phan Hồng H kháng cáo bản án sơ thẩm số 28/2022/DS-ST ngày 15 tháng 9 năm 2022 với nội dung đề nghị giải quyết lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm, xem xét lại chứng cứ vì giấy xác nhận công nợ ông ký trong lúc tinh thần không minh mẫn. Đề nghị nguyên đơn cung cấp sổ nợ gốc.
Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh Đồng Nai tham gia phiên tòa:
Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm, thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử và tại phiên tòa. Các đương sự tham gia phiên tòa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Đơn kháng cáo của nguyên đơn được làm trong thời hạn luật định, đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm, kháng cáo hợp pháp nên được xem xét theo thủ tục chung.
Quan điểm đối với nội dung kháng cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
1. Về thủ tục kháng cáo:
Bị đơn nộp đơn kháng cáo trong hạn luật định và đã nộp tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm nên kháng cáo của các nguyên đơn đã được thụ lý, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; các đương sự không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ mới.
2. Về quan hệ pháp luật, tư cách đương sự cấp sơ thẩm xác định là đúng và đầy đủ:
3. Về nội dung kháng cáo: Bị đơn ông Phan Hồng H kháng cáo bản án sơ thẩm về phần công nợ với bà H Kim Yến. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông H xác định giữa bà Y và bà L, ông H có các giao dịch mua bán hàng hóa cụ thể là thức ăn gia súc và thuốc thú y. Căn cứ vào giấy xác nhận công nợ do nguyên đơn cung cấp (giấy xác nhận được lập vào ngày 26/10/2019) cấp sơ thẩm xác định, số tiền ông H bà L còn nợ bà Y là 498.180.000đ (trong đó tiền cám là 325.880.000đ, tiền thuốc thú y là 207.300.000đ, đã trả là 35.000.000đ) là có cơ sở bởi lẽ: Giấy xác nhận nợ ông H thừa nhận mình là người ký và viết tên của mình; lời khai nại về việc khi ký tên đầu óc ông không được minh mẫn, do bà L mới mất là không có căn cứ để xem xét. Tại cấp phúc thẩm, ông H yêu cầu được đối chiếu sổ sách về tiền cám; đối với yêu cầu này của ông H không có cơ sở xem xét bởi lẽ nguyên đơn khởi kiện dựa trên căn cứ vào giấy xác nhận công nợ giữa các bên đã lập ngày 26/10/2019. Đối với số tiền nợ thuốc thú y, ông H xác định chỉ nợ khoảng 80.000.000đ nhưng không cung cấp được tài liệu chứng cứ gì chứng minh cho ý kiến của mình. Do đó, kháng cáo của ông H là không có cơ sở chấp nhận.
Đối với án phí Ông H, chị T, anh V, cháu P, bà P phải chịu khi thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại thì chỉ chịu án phí trong phạm vi di sản do người chết để lại.
Các phần khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
4. Án phí dân sự phúc thẩm:
Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
5. Về quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Tỉnh Đồng Nai: Đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa cơ bản phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 01 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Phan Hồng H.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 28/2022/DS-ST ngày 15 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú.
Căn cứ vào:
- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 157, khoản 1 Điều 158, Điều 165, khoản 1 Điều 166, Điều 184, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 238 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Điều 117, Điều 351, Điều 357, Điều 385, Điều 401, Điều 429, Điều 430, Điều 440, Điều 463, Điều 466 và Điều 470; Điều 207, Điều 208, Điều 210, Điều 213, Điều 221, Điều 223 và Điều 288; Điều 609, Điều 611, Điều 612, Điều 613, Điều 614, Điều 615, điểm a khoản 1 Điều 651 và Điều 688 Bộ luật dân sự;
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 24, Điều 25, Điều 27, Điều 29, Điều 33, Điều 34, Điều 35, Điều 37, Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Khoản 1, khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; khoản 1 Điều 297, Điều 306 Luật thương mại;
- Điều 5 và Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
- Điều 7 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 04 tháng 4 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Khoản 2, khoản 6 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
1.1 Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà H Kim Yến về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, tranh chấp thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại” đối với bị đơn ông Phan Hồng H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phan Thị Lệ T, anh Phan Tường V, cháu Phan Hồng P, bà Lê Thị P.
1.1.1. Buộc ông Phan Hồng H có nghĩa vụ trả cho bà H Kim Yến số tiền nợ gốc là 249.090.000đ (Hai trăm bốn mươi chín triệu không trăm chín mươi nghìn đồng) và tiền lãi là 71.940.500đ (Bảy mươi mốt triệu chín trăm bốn mươi nghìn năm trăm đồng), tổng cộng là 321.030.500đ (Ba trăm hai mươi mốt triệu không trăm ba mươi nghìn năm trăm đồng).
1.1.2. Buộc ông Phan Hồng H và chị Phan Thị Lệ T, anh Phan Tường V, cháu Phan Hồng P, bà Lê Thị P có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, trả cho bà H Kim Yến số tiền nợ gốc là là 249.090.000đ (Hai trăm bốn mươi chín triệu không trăm chín mươi nghìn đồng) và tiền lãi là 71.940.500đ (Bảy mươi mốt triệu chín trăm bốn mươi nghìn năm trăm đồng), tổng cộng là 321.030.500đ (Ba trăm hai mươi mốt triệu không trăm ba mươi nghìn năm trăm đồng).
1.2. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà H Kim Yến đã rút về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, tranh chấp thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại” đối với số tiền gốc 35.000.000đ (Ba mươi lăm triệu đồng). Hậu quả của việc đình chỉ: Bà Y không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại đối với yêu cầu này.
2. Về yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T (S):
2.1. Chấp nhận phần yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T (S) về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng, tranh chấp thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại” đối với bị đơn ông Phan Hồng H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phan Thị Lệ T, anh Phan Tường V, cháu Phan Hồng P, bà Lê Thị P.
2.1.1. Buộc ông Phan Hồng H có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T số tiền nợ gốc, dư nợ thẻ tín dụng là 248.470.000đ (Hai trăm bốn mươi tám triệu bốn trăm bảy mươi nghìn đồng) và tiền lãi tính đến ngày xét xử 15/9/2022 là 101.088.477đ (Một trăm lẻ một triệu không trăm tám mươi tám nghìn bốn trăm bảy mươi bảy đồng), tổng cộng là 349.558.478đ (Ba trăm bốn mươi chín triệu năm trăm năm mươi tám nghìn bốn trăm bảy mươi tám đồng).
2.1.2. Buộc ông Phan Hồng H và chị Phan Thị Lệ T, anh Phan Tường V, cháu Phan Hồng P, bà Lê Thị P có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T số tiền nợ gốc, dư nợ thẻ tín dụng là 248.470.000đ (Hai trăm bốn mươi tám triệu bốn trăm bảy mươi nghìn đồng) và tiền lãi tính đến ngày xét xử 15/9/2022 là 101.088.477đ (Một trăm lẻ một triệu không trăm tám mươi tám nghìn bốn trăm bảy mươi bảy đồng), tổng cộng là 349.558.478đ (Ba trăm bốn mươi chín triệu năm trăm năm mươi tám nghìn bốn trăm bảy mươi tám đồng).
2.3. Kể từ ngày 16/9/2022 mà ông H, chị T, anh V, cháu P, bà P chưa thanh toán số tiền nợ gốc và nợ lãi phát sinh nêu trên cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T thì ông H, chị T, anh V, cháu P, bà P còn tiếp tục phải chịu khoản tiền lãi quá hạn trên số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số LD1815100524 ngày 01/06/2018, Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 14/6/2018 và Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung Hợp đồng tín dụng số LD1815100524-01 ngày 10/06/2019 (giữa Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T và ông Phan Hồng H, bà Nguyễn Thị L) cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc (Mức lãi suất được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T).
Trường hợp ông H và chị T, anh V, cháu P, bà P không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ đối với: Quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 249, tờ bản đồ số 16 xã Phú Thanh, huyện Tân Phú (Ủy ban nhân dân huyện Tân Phú cấp ngày 02/04/2013 cho ông Phan Hồng H và bà Nguyễn Thị L) và tài sản gắn liền với đất theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số 1381-2510/TC ngày 01/6/2018 (Chứng nhận việc thế chấp đã được đăng ký ngày 04/6/2018 tại Văn phòng Đăng ký đất đai Tỉnh Đồng Nai – Chi nhánh huyện Tân Phú).
Trường hợp ông H và chị T, anh V, cháu P, bà P trả xong nợ và lãi phát sinh mà không cần xử lý tài sản đảm bảo thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T có nghĩa vụ trả lại bản chính Quyền sử dụng đất số BN 128887 (Ủy ban nhân dân huyện Tân Phú cấp ngày 02/04/2013 cho ông Phan Hồng H và bà Nguyễn Thị L) cho ông Phan Hồng H.
3. Về chi phí tố tụng: Bà Y đã nộp chi phí tố tụng tổng cộng là 36.160.000đ (Ba mươi sáu triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng). Ông H có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Y chi phí tố tụng 18.080.000đ (Mười tám triệu không trăm tám mươi nghìn đồng); ông H, chị T, anh V, cháu P, bà P có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Y chi phí tố tụng 18.080.000đ (Mười tám triệu không trăm tám mươi nghìn đồng).
4. Xác định trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết (bà Nguyễn Thị L) để lại của ông H, chị T, anh V, cháu P, bà P là ½ (một nửa) giá trị tài sản chung của ông H, bà L gồm: Quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 249, tờ bản đồ số 16 xã Phú Thanh, huyện Tân Phú (Ủy ban nhân dân huyện Tân Phú cấp ngày 02/04/2013 cho ông Phan Hồng H và bà Nguyễn Thị L) và tài sản gắn liền với đất gồm công trình xây dựng (nhà ở gia đình, chuồng chăn nuôi, ô nuôi lươn, ô nuôi trùng, chuồng gà, giếng khoan, hệ thống xử lý chất thải) và cây xanh.
(Hiện trạng tài sản được mô tả theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 15/12/2021 của Tòa án, Chứng thư Thẩm định giá số 916/6/CT-ĐNI ngày 04/4/2022 của Công ty Cổ phần Thẩm định giá N, Trích lục và biên vẽ thửa đất bản đồ địa chính số 1410/2021 ngày 22/12/2021 của Văn phòng Đăng ký đất đai Tỉnh Đồng Nai – Chi nhánh Tân Phú) Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
5. Về án phí:
Ông H phải chịu 30.824.000đ (Ba mươi triệu tám trăm hai mươi bốn nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Ông H, chị T, anh V, cháu P, bà P phải chịu 30.824.000đ (Ba mươi triệu tám trăm hai mươi bốn nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm trong phạm vi di sản do người chết (bà Liên) để lại.
Trả lại cho bà Y số tiền 11.106.000đ (Mười một triệu một trăm lẻ sáu nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0003970 ngày 01/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú, Tỉnh Đồng Nai.
Trả lại cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T số tiền 14.000.000đ (Mười bốn triệu đồng) đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0002614 ngày 29/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú, Tỉnh Đồng Nai.
Ông H phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí Dân sự phúc thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí ông H đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002813 ngày 10 tháng 10 năm 2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Tân Phú. Ông H đã nộp đủ án phí phúc thẩm theo quy định.
6. Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (Sửa đổi, bổ sung năm 2014).
7.Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 122/2023/DS-PT
Số hiệu: | 122/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 12/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về