TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 01/2024/KDTM-PT NGÀY 12/03/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 01/2024/KDTM-PT ngày 04/01/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”. Do bản án dân sự sơ thẩm số 16/2023/KDTM-ST ngày 21 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 04/2024/QĐ-PT ngày 28 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn B; Người đại diện theo pháp luật: ông Đỗ Văn V - Chức vụ: Giám đốc; Địa chỉ: C P, phường T, TP ., tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Tâm H - Sinh năm: 1973; Địa chỉ: A T, phường D, TP ., tỉnh Phú Yên. Có mặt.
Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn T; Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Hữu Q - Chức vụ: Giám đốc; Địa chỉ: C N, phường P, TP ., tỉnh Phú Yên (Ông Nguyễn Hữu Q hiện đang chấp hành án tại Trại giam X). Có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người kháng cáo: nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày được tóm tắt như sau:
Ngày 22/11/2009, Công ty TNHH B và Công ty T ký kết hợp đồng mua bán, hại bên thỏa thuận mua bán máy đào bánh lốp, hiệu DEAWOO SOLAR 130W-V, số khung SL130W-V-0704, số máy: DB58T900022EE do Hàn Quốc sản xuất năm 1999, số lượng 01 chiếc, được Cục Đ cấp giấy chứng nhận đăng ký xe máy chuyên dùng số 0797 XMCD, biển số 78LA-05xx, với giá 650.000.000đ (sáu trăm năm mươi triệu đồng) bao gồm thuế VAT. Sau khi ký hợp đồng, Công ty TNHH B đã lập phiếu ủy nhiệm chi ngày 23/11/2009 cho công ty T số tiền nói trên và Công ty T đã xuất hóa đơn giá trị gia tăng ngày 23/11/2009, hai bên tiến hành giao nhận xe. Hiện công ty B đang sử dụng chiếc xe này từ đó cho đến nay. Vừa qua, công ty B nhận được Công văn số 452/CCTHADS ngày 26/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa thông báo sẽ tiến hành kê biên và xử lý theo quy định pháp luật đối với tài sản mua bán nêu trên là xe đào biển số 78LA-05xx. Công ty B thấy rằng việc mua bán xe đào nói trên là hợp pháp, đúng quy định pháp luật. Nay công ty B khởi kiện công ty TNHH T yêu cầu công ty T phải có trách nhiệm về mặt pháp lý đối với hợp đồng mua bán chiếc xe đào biển số 78LA-05xx mà các bên đã ký kết mua bán nêu trên, công nhận chiếc xe đào biển số 78LA - 05xx là của công ty B.
- Người đại diện pháp luật của bị đơn do ông Nguyễn Hữu Q trình bày: Ngày 22/11/2009, tôi đại diện theo pháp luật của Công ty T ký kết hợp đồng mua bán xe với công ty B như nguyên đơn trình bày, bên bị đơn đã giao xe cho bên nguyên đơn và bên bị đơn đã nhận đủ tiền 650.000.000đ. Tại thời điểm mua bán xe thì chiếc xe này đang thế chấp tại ngân hàng tại Ngân hàng C - chi nhánh P để đảm bảo khoản vay 980.000.000đ, ngày thế chấp ngày 09/10/2009, nên khi mua bán bên bị đơn không đưa giấy chứng nhận đăng ký xe cho nguyên đơn được. Đến ngày 29/12/2009, bên bị đơn đã trả xong khoản vay cho ngân hàng, nhưng sau đó tiếp tục sử dụng xe này để thế chấp để vay tiền ngân hàng. Nay công ty B khởi kiện yêu cầu công ty T có trách nhiệm pháp lý đối với việc mua bán xe thì tôi có ý kiến như sau: vì xe đào 78LA-05xx tối đang thế chấp ngân hàng nhưng lại ký kết hợp đồng mua bán với công ty B là không đúng theo quy định pháp luật, tại thời điểm mua bán xe hai bên không xuất trình, kiểm tra giấy đăng ký xe, hợp đồng mua bán xe không được công chứng, chứng thực và không được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền, hiện nay bản án hình sự sơ thẩm số 09/2016/HSST ngày 29/4/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã có hiệu lực pháp luật đã tuyên xử kê biên và tạm giữ xe đào nêu trên để đảm bảo thi hành án cho ngân hàng và bản án phúc thẩm số 277/2016/HSPT ngày 27/9/2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đang có hiệu lực pháp luật. Do đó, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm và đề nghị Tòa án xét xử theo quy định pháp luật Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 16/2023/KDTM-ST ngày 21 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa đã quyết định:
- Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ các điều 121, 122, 127, 128, 137 Bộ luật dân sự 2005;
- Căn cứ khoản 2, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH B về việc yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán tài sản là máy đào bánh lốp, hiệu DEAWOO SOLAR 130W-V, số khung SL130W-V-0704, số máy: DB58T900022EE do Hàn Quốc sản xuất năm 1999, số lượng 01 chiếc, được Cục Đ cấp giấy chứng nhận đăng ký xe máy chuyên dùng số 0797 XMCD, biển so 78LA-05xx giữa Công ty TNHH B và Công ty TNHH T.
Tuyên bố hợp đồng mua bán máy đào bánh lốp, hiệu DEAWOO SOLAR 130W-V, số khung SL130W-V-0704, số máy: DB58T900022EE do Hàn Quốc sản xuất năm 1999, số lượng 01 chiếc, được Cục Đ cấp giấy chứng nhận đăng ký xe máy chuyên dùng số 0797 XMCD, biển số 78LA-05xx giữa Công ty TNHH B và Công ty TNHH T vô hiệu.
Buộc Công ty TNHH T trả lại cho Công ty B số tiền 650.000.000đ (sáu trăm năm mươi triệu đồng).
Buộc Công ty TNHH B phải trả lại xe đào hiệu DEAWOO SOLAR 130W-V, số khung SL130W-V-0704, số máy: DB58T900022EE do Hàn Quốc sản xuất năm 1999, số lượng 01 chiếc, được Cục Đ cấp giấy chứng nhận đăng ký xe máy chuyên dùng số 0797 XMCD, biển số 78LA-05xx cho Công ty T để đảm bảo việc kê biên thi hành án theo bản án hình sự sơ thẩm số 09/2016/HSST ngày 29/4/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên và bản án hình sự phúc thẩm số 277/2016/HSPT ngày 27/9/2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
Ngoài ra bản án còn tuyên về lãi chậm trả, nghĩa vụ chịu án phí; quy định thi hành án và thời hạn kháng cáo của đương sự.
Ngày 29/9/2023 nguyên đơn kháng cáo yêu cầu chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và kháng cáo.
Bị đơn có đơn xin vắng mặt, đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên phát biểu ý kiến: về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm của Thẩm phán, HĐXX và những người tham gia tố tụng là đúng quy định. Về nội dung vụ án: Đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản tại thời điểm công ty B và công ty T giao kết là tài sản đã được thế chấp để bảo đảm khoản vay cho Ngân Hàng theo bản án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Phú Yên và bản án hình sự phúc thẩm của TAND cấp cao Đà Nẵng, cấp sơ thẩm bác đơn khởi kiện của nguyên đơn, tuyên hợp đồng vô hiệu, buộc các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận là đúng quy định pháp luật, kháng cáo không có cơ sở. Tuy nhiên cấp sơ thẩm buộc bị đơn phải chịu án phí đối với số tiền phải hoàn trả cho nguyên đơn là không đúng. Đề nghị HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 308 BLTTDS bác đơn kháng cáo của nguyên đơn, sửa bản án sơ thẩm về phần án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của các bên đương sự, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn kháng cáo và nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong thời hạn luật định là kháng cáo hợp lệ được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung kháng cáo của nguyên đơn: đề nghị sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện.
Ngày 22/11/2009, công ty TNHH B (Công ty B) và công ty TNHH T (Công ty T) ký kết hợp đồng mua bán, đối tượng mua bán là máy đào bánh lốp, biển số 78LA-05xx, giá 650.000.000đ bao gồm thuế VAT. Hai bên đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán, từ ngày 23/11/2009 đến nay, máy đào bánh lốp do công ty B sử dụng. Tại thời điểm giao kết hợp đồng mua bán tài sản trên, máy đào bánh lốp biển số 78LA-05xx là tài sản của công ty T đã thế chấp cho Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh P để đảm bảo khoản vay 980.000.000đ. Mặt khác, tại bản án số 09/2016/HSST ngày 29/4/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên và bản án phúc thẩm số 277/2016/HSPT ngày 27/9/2016 Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã tuyên xử tiếp tục kê biên xe đào bánh lốp, biển số 78LA- 05xx đề đảm bảo thi hành án cho Ngân hàng TMCP C - chi nhánh P. Do đó, cấp sơ thẩm tuyên bố hợp đồng mua bán ngày 22/11/2009 giữa công ty B và công ty T vô hiệu và bác đơn khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
Về án phí sơ thẩm, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán, cấp sơ thẩm tuyên bố hợp đồng mua bán vô hiệu buộc các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận và bác đơn khởi kiện của nguyên đơn nhưng cấp sơ thẩm buộc bị đơn phải chịu án phí đối với số tiền phải hoàn trả cho nguyên đơn là không đúng, cần sửa án sơ thẩm về phần án phí.
Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, HĐXX không không thể thỏa mãn với yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn công ty TNHH B, sửa bản án sơ thẩm về án phí.
Áp dụng khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 121, 122, 127, 128, 137 Bộ luật dân sự 2005; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH B về việc yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán tài sản là máy đào bánh lốp, hiệu DEAWOO SOLAR 130W-V, số khung SL130W-V-0704, số máy: DB58T900022EE do Hàn Quốc sản xuất năm 1999, số lượng 01 chiếc, được Cục Đ cấp giấy chứng nhận đăng ký xe máy chuyên dùng số 0797 XMCD, biển số 78LA-05xx giữa Công ty TNHH B và Công ty TNHH T lập ngày 22/11/2009.
Tuyên bố hợp đồng mua bán máy đào bánh lốp, hiệu DEAWOO SOLAR 130W-V, số khung SL130W-V-0704, số máy: DB58T900022EE do Hàn Quốc sản xuất năm 1999, số lượng 01 chiếc, được Cục Đ cấp giấy chứng nhận đăng ký xe máy chuyên dùng số 0797 XMCD, biển số 78LA-05xx giữa Công ty TNHH B và Công ty TNHH T lập ngày 22/11/2009 vô hiệu.
Buộc Công ty TNHH T trả lại cho Công ty B số tiền 650.000.000đ (sáu trăm năm mươi triệu đồng).
Buộc Công ty TNHH B phải trả lại xe đào hiệu DEAWOO SOLAR 130W-V, số khung SL130W-V-0704, số máy: DB58T900022EE do Hàn Quốc sản xuất năm 1999, số lượng 01 chiếc, được Cục Đ cấp giấy chứng nhận đăng ký xe máy chuyên dùng số 0797 XMCD, biển số 78LA-05xx cho Công ty T để đảm bảo việc kê biên thi hành án theo bản án hình sự sơ thẩm số 09/2016/HSST ngày 29/4/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên và bản án hình sự phúc thẩm số 277/2016/HSPT ngày 27/9/2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thanh toán số tiền nêu trên thì phải chịu thêm tiền lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
- về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn Công ty TNHH B phải chịu 3.000.000đ án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm, nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004554 ngày 13/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuy Hòa số tiền 15.000.000đ, nên hoàn trả lại cho công ty TNHH B số tiền 12.000.000đ.
- Về án phí phúc thẩm: do sửa án sơ thẩm nên nguyên đơn kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm. Hoàn trả lại cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 2.000.000đ đã nộp đủ tại biên lai thu tiền số 0012551 ngày 11/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuy Hòa.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 01/2024/KDTM-PT
Số hiệu: | 01/2024/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Yên |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 12/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về