Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 275/2023/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

 BẢN ÁN 275/2023/DS-PT NGÀY 22/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Ngày 22 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 269/2023/TLPT-DS ngày 18 tháng 7 năm 2023 về việc: “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 171/2023/DS-ST ngày 07 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 284/2023/QĐ-PT ngày 01 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: 1. Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1977.

2. Bà Trương Diễm K1, sinh năm 1981. Cùng địa chỉ: Ấp 3, xã K, huyện U, tỉnh C ..

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Giang Trung K2, sinh năm 1965 (có mặt).

Địa chỉ: Khóm 7, thị t, huyện T, tỉnh C ..

- Bị đơn: Bà Thái Thị T, sinh năm 1980.

Địa chỉ: Khóm 2, thị trấn Đ, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Ninh Cao P, sinh năm 1948 (có mặt).

Địa chỉ: Khóm 10, thị trấn Đ, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.

- Người kháng cáo: Nguyên đơn là ông Nguyễn Văn M và bà Trương Diễm K.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn trình bày: Ngày 13/8/2022 bà Thái Thị T có mua của ông Nguyễn Văn M và bà Trương Diễm K1 mặt hàng thủy sản (mực) với số tiền 97.452.000 đồng. Bà T đã trả được 49.636.000 đồng, còn lại 47.816.000 đồng bà T không trả. Nay ông M và bà K1 yêu cầu Tòa án giải quyết, buộc bà T trả cho ông M và bà K1 số tiền 47.816.000 đồng.

- Bị đơn, bà Thái Thị T trình bày: Bà T thừa nhận ngày 08/9/2022, bà T mua hàng thủy sản của ông M theo toa hàng là 97.452.000 đồng, bà T đã chuyển vào tài khoản của ông M 49.636.000 đồng vào ngày 09/9/2022 nên bà T còn nợ ông M là 47.816.000 đồng. Lý do bà T không trả đủ tiền cho ông M là do ngày 19/02/2022 ông M có mua hàng thủy sản của bà T theo toa hàng là 97.816.000 đồng nhưng ông M chỉ chuyển khoản trả cho bà T 50.000.000 đồng vào ngày 19/02/2022, ông M còn nợ bà T số tiền 47.816.000 đồng ông M không trả. Do đó, ngày 08/9/2022, bà T mua hàng thủy sản của ông M theo toa hàng là 97.452.000 đồng, bà T đã trừ số tiền ông M nợ bà T là 47.816.000 đồng, nên bà T chuyển vào tài khoản của ông M số tiền còn lại là 49.636.000 đồng. Nay bà T không còn nợ ông M, do đó bà T không đồng ý trả cho ông M, bà K1 số tiền 47.816.000 đồng theo yêu cầu của ông M và bà K1.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 171/2023/DS-ST ngày 07 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn M và bà Trương Diễm K1 về việc yêu cầu bà Thái Thị T trả số tiền 47.816.000 đồng.

Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Thái Thị T về việc: Đối trừ số tiền 47.816.000 đồng bà Thái Thị T nợ ông Nguyễn Văn M và bà Trương Diễm K1 với số tiền 47.816.000 đồng ông Nguyễn Văn M và bà Trương Diễm K1 nợ bà Thái Thị T.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 22/6/2023 nguyên đơn là ông Nguyễn Văn M và bà Trương Diễm K kháng cáo yêu cầu cấp Ṕc thẩm xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông M và bà K, buộc bà Thái Thị T trả cho ông M và bà K số tiền 29.998.000 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn M và bà Trương Diễm K1 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và tranh luận cho rằng, ông M thừa nhận có mua hàng thủy sản của bà T số tiền 97.816.000 đồng theo toa hàng bà T cung cấp nhưng ông M đã chuyển khoản cho bà T hai lần tiền, một lần chuyển khoản cho bà T 50.000.000 đồng vào ngày 19/2/2022 và một lần chuyển khoản 30.000.000 đồng vào ngày 07/3/2022, tổng cộng là 80.000.000 đồng nên ông M chỉ còn nợ bà T 17.816.000 đồng, bà T mua hàng của ông M 97.452.000 đồng, bà T đã trả được 49.636.000 đồng, còn lại 47.816.000 đồng, đối trừ thêm số tiền ông M còn nợ bà T là 17.816.000 đồng, nên ông M kháng cáo yêu cầu bà T trả 29.998.000 đồng.

Người đại diện theo ủy quyền của bà T tranh luận cho rằng số tiền 30.000.000 đồng ông M chuyển khoản ngày 07/3/2022 là tiền ông M cho bà T mượn được bà T trả vào phiếu mua hàng của ông M nợ bà T 129.520.000 đồng. Do đó, khi ông M thanh toán tiền cho bà T, bà T đã trừ cho ông M 30.000.000 đồng nên ông M chỉ phải trả cho bà T 99.520.000 đồng. Ông M đã chuyển khoản vào tài khoản của bà T 99.500.000 đồng vào ngày 12/3/2022.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông M và bà K1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn M và bà Trương Diễm K1, Hội đồng xét xử xét thấy:

Ông M và bà K1 xác định, vào ngày 13/8/2022 bà T có mua của ông M và bà K1 mặt hàng thủy sản là mực với số tiền 97.452.000 đồng. Bà T đã trả được 49.636.000 đồng vào ngày 09/9/2022, còn lại 47.816.000 đồng bà T chưa trả được bà T thừa nhận. Đồng thời ông M cũng thừa nhận vào ngày 19/02/2022 ông M có mua hàng thủy sản của bà T 97.816.000 đồng, ông M có chuyển khoản trả 50.000.000 đồng vào ngày 19/02/2022, ông M còn nợ bà T số tiền 47.814.000 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của ông M cho rằng ngoài lần chuyển khoản 50.000.000 đồng cho bà T vào ngày 19/02/2022, đến này 07/3/20022, ông M có chuyển khoản 30.000.000 đồng cho bà T nên số tiền ông M nợ bà T chỉ còn lại 17.816.000 đồng, do đó ông M chấp nhận đối trừ cho bà T đối với số nợ ông M yêu cầu bà T trả là 29.998.000 đồng (47.814.000 đồng - 17.816.000 đồng = 29.998.000 đồng).

Người đại diện theo ủy quyền của bà T không thừa nhận số tiền 30.000.000 đồng ông M chuyển khoản cho bà T ngày 07/3/2022 là tiền ông M trả nợ cho bà T theo toa hàng ngày 19/2/2022 do ông M có mua hàng thủy sản của bà T 97.816.000 đồng mà bà T cho rằng số tiền 30.000.000 đồng ông M chuyển khoản ngày 07/3/2022 là tiền bà T mượn của ông M đã được bà T trả cho ông M bằng cách trừ 30.000.000 đồng vào toa hàng do ông M mua của bà T 129.520.000 đồng (BL 51). Do đó ông M chỉ phải trả cho bà T 99.520.000 đồng nên ông M đã chuyển khoản trả cho bà T 99.500.000 đồng vào ngày 12/3/2022 (BL 52). Toa hàng này được ông M thừa nhận do ông M tự ghi số tiền ông M mua hàng của bà T là 129.520.000 đồng và ông M cũng đã trừ 30.000.000 đồng vào toa hàng nên ông M đã chuyển khoản cho bà T 99.500.000 đồng.

[2] Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của ông M cho rằng số tiền ông M trừ 30.000.000 đồng vào khoản tiền ông M trả cho bà T theo toa hàng 129.520.000 đồng là khoản tiền ông M trả tiền mặt cho bà T khi ông M mua hàng nhưng bà T không thừa nhận có nhận tiền mặt của ông M. Bà T cho rằng việc mua hàng và trả tiền hai bên đều thanh toán với nhau bằng hình thức chuyển khoản, do ông M không có chứng cứ chứng minh số tiền 30.000.000 đồng được trừ trong khoản tiền nợ do ông M nợ bà T 129.520.000 đồng là tiền mặt, vì vậy không có cơ sở chấp nhận lời trình bày của ông M đã chuyển khoản cho bà T 30.000.000 đồng vào ngày 07/3/2022 là khoản tiền ông M trả nợ cho bà T theo toa hàng do ông M mua của bà T số tiền 97.816.000 đồng vào ngày 19/02/2022.

Như vậy, số tiền 47.816.000 đồng ông M yêu cầu bà T trả đã được bà T trừ vào số tiền ông M nợ bà T theo toa hàng ngày 19/02/2022 do ông M mua hàng của bà T là 97.816.000 đồng, ông M đã trả cho bà T được 50.000.000 đồng nên ông M còn nợ bà T 47.816.000 đồng. Do đó, bà T không còn nợ ông M. Vì vậy, ông M và bà K1 kháng cáo yêu cầu bà T trả cho ông M và bà K1 29.998.000 đồng là không có cơ sở.

[3] Tại phiên tòa Ṕc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của ông M và bà K không có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của ông M, bà K nên không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông M, bà K.

Bản án sơ thẩm quyết định không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông M và bà K1 là có cơ sở. Tuy nhiên cấp sơ thẩm xác định yêu cầu của bà T là yêu cầu phản tố là không đúng mà đây là nghĩa vụ đối trừ. Do đó không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn mà không phải chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, do đó cần sửa bản án sơ thẩm về cách tuyên án.

[4] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tại phiên tòa là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn M và bà Trương Diễm K1 phải chịu theo quy định.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQ14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn M và bà Trương Diễm K1. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 171/2023/DS-ST ngày 07 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn M và bà Trương Diễm K1 về việc yêu cầu bà Thái Thị T trả số tiền 47.816.000 đồng.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn M và bà Trương Diễm K1 phải chịu 2.390.800 đồng. Ngày 08/3/2023 ông M và bà K1 đã nộp tạm ứng án phí 1.195.000 đồng theo biên lai số 0006329 được đối trừ, ông M và bà K1 phải nộp tiếp 1.195.800 đồng. Bà Thái Thị T không phải chịu án phí, ngày 04/4/2023 bà T đã nộp tạm ứng án phí 1.195.000 đồng theo biên lai số 0006496 được nhận lại.

Về án phí dân sự Ṕc thẩm: Ông Nguyễn Văn M và bà Trương Diễm K mỗi người phải chịu 300.000 đồng. Ngày 22/6/2023 ông M và bà K mỗi người đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0006930 và 0006929 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Trần Văn Thời được chuyển thu.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các quyết định khác không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 275/2023/DS-PT

Số hiệu:275/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về