TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 209/2022/DS-PT NGÀY 04/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN
Ngày 04 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số 118/2022/TLPT-DS ngày 23 tháng 5 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 85/2022/DS-ST ngày 13 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 107/2022/QĐ-PT ngày 10 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH Quốc Tế L (gọi tắt là Công ty).
Người đại diện theo pháp luật: Ông CHUANG JIE CHENG, chức vụ: Tổng giám đốc.
Địa chỉ trụ sở: Số A, khu c, xã S, huyện C, tỉnh K ..
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hoàng T2, sinh năm 1981 - chức vụ: Giám đốc khu vực.
Cư trú tại: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh C . (theo văn bản ủy quyền ngày 17/5/2021), có mặt.
- Bị đơn: Phan Quốc V –sinh năm 1980.
Địa chỉ: Số 118 Trương Phùng Xuân khóm 2 phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (có mặt) Người kháng cáo: Ông Phan Quốc V – bị đơn
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 15/6/2021 của nguyên đơn và lời trình bày của người đại diện hợp pháp tại phiên tòa thể hiện:
Ngày 30/11/2018, Công ty TNHH Quốc Tế L (gọi tắt là Công ty) với ông Phan Quốc V có ký kết Hợp đồng mua bán phân phối thức ăn thủy sản số HĐPP/LT/CMA-07. Khi ký kết hợp đồng ông V ký kết với tư cách là Đại lý Phan Quốc V, nhưng phía ông V không có đăng ký kinh doanh, ông V mua thức ăn thủy sản của Công ty phục vụ cho các ao tôm ông V đang nuôi. Đối với tên gọi “Đại lý” sử dụng trong Hợp đồng phân phối là thuật ngữ thường sử dụng của phía Công ty khi tiến hành phân phối thức ăn thủy sản cho khách hàng thường xuyên mua hàng của Công ty với số lượng lớn.
Phương thức thanh toán trong hợp đồng ông V có nghĩa vụ thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản cho Công ty trước khi nhận hàng. Trong trường hợp chuyển khoản thì ông V phải Fax ủy nhiệm chi cho Công ty. Sau khi Công ty nhận được ủy nhiệm chi và khi Công ty báo có số tiền vào tài khoản Công ty sẽ thực hiện thủ tục xuất hàng cho ông V. Tuy nhiên, vào các tháng cao điểm của vụ nuôi thì phía Công ty đồng ý cho ông V nhận hàng trước và thanh toán sau trong phạm vi mức tín dụng được xác định trong Thư bảo lãnh thanh toán không hủy ngang và vô điều kiện do Ngân hàng hợp pháp (do Công ty chỉ định) phát hành bảo lãnh thanh toán thay cho ông V với thời hạn thanh toán không quá 60 ngày kể từ ngày nhận hàng theo lịch (bao gồm cả ngày nghỉ cuối tuần và nghỉ lễ).
Đối với Hợp đồng phân phối thức ăn với ông Phan Quốc V do phía Công ty tin tưởng nên không yêu cầu ông V cung cấp chứng thư bảo lãnh thanh toán. Từ tháng 10/2020, ông V liên tục trễ hẹn thanh toán, Công ty đã nhiều lần hẹn gặp trao đổi trực tiếp về kế hoạch cũng như gửi bảng đối chiếu công nợ hàng tháng và thư đề nghị thanh toán nhưng ông V vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Tại Bảng đối chiếu xác nhận nợ có ký xác nhận giữa Công ty với ông V vào ngày 20/01/2021, theo đó số tiền ông V còn nợ Công ty đến thời điểm ngày 31/12/2020 là 379.610.387đồng.
Nay phía Công ty TNHH Quốc tế L yêu cầu ông Phan Quốc V thanh toán số tiền nợ mua thức ăn thủy sản tính đến ngày 15/6/2021 là 426.786.078đồng. Trong đó nợ tồn động theo Hợp đồng phân phối thức ăn là 379.610.387đồng và nợ lãi do chậm thanh toán tính từ ngày 01/01/2020 đến thời điểm khởi kiện là ngày 15/06/2021 với lãi suất 09%/năm (0.75%/tháng) bằng số tiền là 47.175.690đồng.
Quá trình làm việc và tại phiên tòa, đại diện Công ty là ông Nguyễn Hoàng T2 xác định, năm 2019 sản lượng tính chiết khấu của ông V là 124.770kg. Đối với chiết khấu năm thanh toán được thể hiện trong hợp đồng là 100đ/kg. Tuy nhiên tại Bảng kê chi tiết công nợ thức ăn tôm lập ngày 31/12/2020 thể hiện số tiền chiết khấu năm là 113.695.000đồng (tương đương với mức chiết khấu là 900đồng/kg). Nay trường hợp ông V đồng ý thanh toán dứt điểm nợ cho Công ty thì phía Công ty đồng ý trừ số tiền chiết khấu trên vào tiền công nợ. Số tiền còn lại ông V phải có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty là 266.915.387đồng và số tiền lãi chậm thanh toán tính từ ngày 01/01/2020 đến ngày 15/6/2021 với mức lãi suất 9%/năm (0.75%/tháng) bằng số tiền là 47.175.690đồng.
Đối với ý kiến của ông V về việc yêu cầu đối trừ số tiền 5.000.000đồng tương đương với 200kg thức ăn mà ông trả cho Công ty vào khoảng tháng 01 năm 2020 nhưng Công ty không nhận. Phía Công ty không đồng ý yêu cầu này của ông V, lý do là từ tháng 10/2019 ông V đã không lấy hàng từ phía Công ty. Đến khoảng tháng 01/2020 thì ông V có liên hệ với nhân viên Công ty để trả hàng. Phía nhân viên Công ty có xuống kiểm tra hàng thì hàng đã hết hạn sử dụng quá lâu. Ngoài ra trong khoảng thời gian này ông V liên tục trả hàng, hàng trả về vượt quá 20% số lượng đơn hàng đặt sau cùng như thỏa thuận tại Hợp đồng, do đó phía Công ty không nhận lại hàng.
Bị đơn là ông Phan Quốc V trình bày tại phiên hòa giải, bản tự khai ngày 05/01/2022 và được bổ sung tại phiên tòa như sau:
Quá trình giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng giữa ông và Công ty TNHH Quốc Tế L như đại diện nguyên đơn trình bày là đúng. Tính đến thời điểm ngày 31/12/2020 giữa ông với phía đại diện Công ty có đối chiếu xác nhận công nợ thì số tiền ông mua thức ăn thủy sản còn nợ Công ty là 379.610.387đồng.
Đồng thời, trước đó khoảng tháng 01/2020 ông có liên hệ với nhân viên Công ty để trả lại 01 tấn thức ăn thì phía Công ty đã nhận và trừ vào công nợ. Sau đó vào khoảng ngày 25/01/2020 ông tiếp tục liên hệ nhân viên Công ty để trả lại 200kg thức ăn (tương đương khoảng 5.000.000đồng) nhưng phía Công ty không nhận.
Đến năm 2020, ông có yêu cầu phía Công ty cho sao kê hoá đơn từng lô hàng để biết số lượng và mức chiết khấu để đối trừ vào công nợ theo như thoả thuận thể hiện tại Phụ lục II: Chính sách và chiết khấu năm 2018 - 2019 ký ngày 12/12/2018 giữa ông với Công ty nhưng Công ty không thực hiện. Mức chiết khấu các bên thoả thuận tại Phụ lục hợp đồng ký ngày 12/12/2018 thể hiện mức chiết khấu năm là 100đ/kg nhưng thực tế ông với nhân viên Công ty tên Đỗ Văn Săn (hiện nay ông Săn đã nghỉ việc tại Công ty) thoả thuận miệng mức chiết khấu là 1.300đ/kg.
Tại phiên hòa giải ngày 05/01/2022, ông trình bày có chuyển trả Công ty số tiền 90.000.000đồng nhưng không nhớ rõ đã chuyển vào thời điểm trước hay sau thời điểm chốt công nợ. Ông sẽ kiểm tra lại, trường hợp khoản tiền này thanh toán trước khi đối chiếu công nợ tức là Công ty đã trừ trước khi đối chiếu công nợ ngày 20/01/2021 thì ông đồng ý thanh toán số tiền còn nợ lại tại thời điểm đối chiếu là 379.610.387đồng trừ với số tiền 5.000.000đồng (tương đương với 200kg thức ăn) và mức chiết khấu trên sản lượng của năm 2019 (với mức chiết khấu là 1.300đ/kg) số tiền còn nợ lại bao nhiêu thì ông đồng ý thanh toán cho Công ty. Ông không đồng ý thanh toán lãi chậm trả theo yêu cầu nguyên đơn.
Tại phiên tòa, ông xác định số tiền 90.000.000đồng trình bày trên, ông đã chuyển thanh toán cho Công ty trước thời điểm đối chiếu công nợ ngày 20/01/2021. Đồng thời, ông V xác định ông không có đăng ký kinh doanh, mục đích ông ký kết Hợp đồng phân phối thức ăn thủy sản với Công ty là để hưởng mức chiết khấu và ưu đãi nhiều hơn, thức ăn thủy sản mua của Công ty ông chỉ sử dụng để nuôi cho các ao tôm của ông, không phân phối cho ai khác. Ông xác định số tiền công nợ thực tế ông nợ Công ty ít hơn so với biên bản đối chiếu do số tiền tại một số hóa đơn giá trị gia tăng chưa chính xác và phù hợp với biên bản đối chiếu, nhưng ông không xác định được ít hơn bao nhiêu. Ông yêu cầu Công ty cung cấp đầy đủ hóa đơn bán hàng để thể hiện rõ hơn số tiền công nợ. Đồng thời, ông yêu cầu Công ty làm rõ mức chiết khấu của năm 2019. Ông thống nhất với sản lượng hàng hóa ông mua từ phía Công ty như phía đại diện Công ty trình bày là đúng. Cụ thể sản lượng năm 2018 là 660kg, sản lượng năm 2019 là 124.770kg.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 85/2022/DS-ST ngày 13/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Quốc tế L.
Buộc ông Phan Quốc V trả cho Công ty TNHH Quốc tế L tổng số tiền là 276.399.387đồng (Hai trăm bảy mươi sáu triệu ba trăm chín mươi chín ngàn ba trăm tám mươi bảy đồng).
Kể từ ngày Công ty TNHH Quốc tế L có đơn yêu cầu thi hành án, ông Phan Quốc V không tự nguyện thi hành xong, thì phải trả thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.
Không chấp nhận một phần yêu cầu của Công ty TNHH Quốc tế L về việc yêu cầu ông Phan Quốc V thanh toán số tiền lãi chậm thanh toán chênh lệch là 37.499.690đồng (Ba mươi bảy triệu bốn trăm chín mươi chín nghìn sáu trăm chín mươi đồng).
2. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:
Ông Phan Quốc V phải chịu là 13.820.000đồng (chưa nộp).
Công ty TNHH Quốc tế L phải chịu là 1.875.000đồng. Công ty đã dự nộp số tiền tạm ứng án phí là 10.536.000đồng, theo biên lai số 0000721 ngày 10/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau, được đối trừ chuyển nộp Ngân sách nhà nước. Công ty được nhận lại số tiền 8.661.000đồng khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Ngày 16/6/2022 Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau có đính chính, sửa chữa bổ sung do phép tính sai số. Ông V phải trả cho công ty số tiền là 276.951.387đồng.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo luật định.
Ngày 28/4/2022, ông Phan Quốc V có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm xem xét các khoản chiết khấu và xin được đối trừ.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Nguyên đơn yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của ông Phan Quốc V, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Ông V kháng cáo cho rằng chiết khấu năm là 1.300đ/kg, chiết khấu tháng là 1.800đ/kg; Về đối trừ số tiền hàng đã trả, ông đã báo trước Công ty không nhận, là lỗi của Công ty; Công ty là người vi phạm vì không tính toán và trừ chiết khấu; Công ty không cung cấp đầy đủ hóa đơn chứng từ số lượng hàng hóa.
[2] Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại biên bản hòa giải ngày 05/01/2022 các bên thống nhất xác nhận bảng kê chi tiết công nợ thức ăn Tôm, ông V còn nợ Công ty số tiền 379.610.387đ. Trên cơ sở đối chiếu công nợ ngày 20/01/2021 cũng là thời điểm ông V ngưng nhận hàng và không thanh toán cho Công ty. Số tiền trên hai bên thừa nhận chưa trừ chiết khấu.
Đối với việc đối trừ số tiền 5.000.000đ, trả hàng tương đương 200kg thức ăn. Căn cứ điểm a Điều 5.5 Hợp đồng ông V trả quá 20% theo đơn đặt hàng và biên bản đối chiếu công nợ tháng 01/2020 ông V đã trả 1.000kg trong cùng tháng 01/2020. Ông V trả tiếp 200kg thức ăn Tôm nên Công ty không nhận hàng. Tại phiên tòa ông V không có chứng cứ nào để chứng minh cho việc trả hàng. Đối với ông T2 cho là ông là người phụ trách khu vực nhưng không nghe ông V trao đổi. Hơn nữa căn cứ hợp đồng thì số lượng hàng trả lại của ông V trong tháng là vượt 20% nên công ty không đồng ý nhận hàng số hàng này ông V cho là đã bỏ. Do đó không có căn cứ chấp nhận lời trình bày của ông V.
[3] Về mức chiết khấu năm: Tại Phụ lục II: Chính sách và chiết khấu năm 2018 + 2019 ký ngày 12/12/2018 giữa các bên thể hiện mức chiết khấu năm với sản lượng 124.770kg là 100đ/kg. Tuy nhiên, quá trình làm việc và tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn xác định. Mặc dù thỏa thuận thể hiện theo Phụ lục hợp đồng mức chiết khấu năm là 100đồng/kg và được tính trên sản lượng năng suất tiêu thụ, nhưng với tư cách là Giám đốc kinh doanh khu vực của Công ty, thì ông Nguyễn Hoàng T2 có hứa với ông V mức chiết khấu của năm 2019 là 900đồng/kg và tại Bảng kê chi tiết công nợ thức ăn tôm ngày 31/12/2020 phía Công ty cũng đã tính mức chiết khấu năm là 900đồng/kg.
Theo cách lý giải của ông T2 tại phiên tòa thì ông T2 xác định số tiền chiết khấu 113.695.000đồng thể hiện tại Bảng kê chi tiết công nợ thức ăn tôm ngày 31/12/2020 có chữ ký ông Phan Quốc V là bao gồm: (Sản lượng năm 2018 là 660kg + sản lượng năm 2019 là 124.770kg) x mức chiết khấu là 900đồng/kg = 112.887.000 đồng cộng với 808.000đồng. Đối với số tiền 808.000đồng này là từ:
số tiền 3.168.000đồng (Công ty còn nợ ông V chiết khấu tháng) – số tiền 2.360.000đồng (phí trả 2.360kg thức ăn tháng).
Bị đơn xác định mức chiết khấu thỏa thuận với Công ty thực tế là 1.300đ/kg nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ thể hiện nội dung thỏa thuận trên. Trong khi đó, ông T2 xác định việc ông V cho rằng nhân viên Công ty thỏa thuận cho ông V hưởng mức chiết khấu 1.300đ/kg là không đúng, do nhân viên Công ty không có quyền thỏa thuận hoặc quyết định mức chiết khấu cho khách hàng.
Do đó, với mức tính chiết khấu 900đồng/kg được đại diện nguyên đơn thừa nhận là có lợi cho phía bị đơn nên được chấp nhận. Như vậy, số tiền chiết khấu năm 2018, 2019 còn lại để đối trừ công nợ đúng như Bảng kê chi tiết công nợ thức ăn tôm ngày 31/12/2020 thể hiện là 113.695.000đồng – 1.000.000đồng (phí trả hàng tháng 01/2020) = 112.695.000đồng.
Theo thỏa thuận tại phụ lục hợp đồng thể hiện chiết khấu trừ vào công nợ, như vậy số tiền nợ mua thức ăn thủy sản ông V có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty là 379.610.387đồng – số tiền chiết khấu 112.695.000đồng = 266.915.387 đồng.
[4] Về mức lãi suất công ty yêu cầu theo Điều 440 BLDS quy định nghĩa vụ thanh toán của bên mua, nguyên đơn yêu cầu tính mức lãi suất 0,75%/ tháng là phù hợp pháp luật có lợi cho bị đơn. Được tính như sau:
Từ ngày 20/01/2021 đến ngày 15/6/2021 (theo yêu cầu của nguyên đơn) là 04 tháng 25 ngày x 0.75%/tháng x 266.915.387đồng = 9.676.000đồng. Tổng hai khoản ông V phải trả là 266.915.387 đồng + 9.676.000đồng. = 276.591.387đ. Đối với số tiền lãi chậm thanh toán nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền là 47.175.690 đồng - 9.676.000đồng = 37.499.690 đồng là không có cơ sở chấp nhận.
[5] Tại phiên tòa phúc thẩm người kháng cáo, cung cấp chứng cứ phụ lục hợp đồng giữa Công ty TNHH Khoa học, Kỹ thuật Nông nghiệp chăn nuôi Alphafeed Việt Nam với bà Đoái Thị Nhị; Biên bản đối chiếu công nợ, hợp đồng phân phối và 01 biên bản tường thuật sự việc của Lê Tấn Lân ngoài ra không có chứng cứ nào mới. Song, các chứng cứ này không liên quan đến việc hợp đồng giữa Công ty với ông V để chứng minh việc kháng cáo. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của ông V.
[6] Ý kiến đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau là phù hợp với nhận định trên.
[7] Án phí sơ thẩm: Ông Phan Quốc V phải chịu là 13.820.000 đồng. Công ty TNHH Quốc tế L phải chịu là 1.875.000 đồng. Công ty đã dự nộp số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm là 10.536.000 đồng, được đối trừ chuyển nộp Ngân sách nhà nước. Công ty được nhận lại số tiền 8.661.000 đồng.
[8] Án phí phúc thẩm: Ông V phải chịu, đã dự nộp chuyển thu sung quỹ nhà nước.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Phan Quốc V.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 85/DS-ST ngày 13/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Quốc tế L. Buộc ông Phan Quốc V trả cho Công ty TNHH Quốc tế L tổng số tiền là 276. 591.387đồng (Hai trăm bảy mươi sáu triệu năm trăm chín mươi mốt ngàn ba trăm tám mươi bảy đồng).
Kể từ ngày Công ty TNHH Quốc tế L có đơn yêu cầu thi hành án, ông Phan Quốc V không tự nguyện thi hành xong, thì phải trả thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.
Không chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền lãi chậm thanh toán chênh lệch là 37.499.690 đồng (Ba mươi bảy triệu bốn trăm chín mươi chín nghìn sáu trăm chín mươi đồng).
2. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Ông Phan Quốc V phải chịu là 13.830.000 đồng (chưa nộp). Công ty TNHH Quốc tế L phải chịu là 1.875.000 đồng. Công ty đã dự nộp số tiền tạm ứng án phí là 10.536.000 đồng theo biên lai số 0000721 ngày 10/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau, được đối trừ chuyển nộp Ngân sách nhà nước. Công ty được nhận lại số tiền 8.661.000 đồng.
Án phí dân sự phúc thẩm: Ông V phải nộp 300.000đ. Ngày 28/4/2022, ông V đã dự nộp án phí phúc thấm số tiền 300.000đ, lai số 0001256 tại Chi cục thi hành án Dân sự Thành phố Cà Mau, được chuyển thu sung quỹ nhà nước.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 209/2022/DS-PT
Số hiệu: | 209/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 04/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về