Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 19/2022/KDTM-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 19/2022/KDTM-ST NGÀY 16/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Ngày 05 và 16 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 08/2022/TLST-KDTM ngày 12/04/2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2022/QĐXXST-KDTM ngày 10/06/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty cổ phần Đi S G G Đị Trụ sở: số C - B, phường T, thành phố T, Thành phố H.

Người đại diện theo pháp luật: Ông N Đ T - Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị

Người đại diện theo ủy quyền: Ông N H T, sinh năm: 1969 - Địa chỉ: số 34, đường 9B, khu dân cư Gia Hòa, phường Phước Long B, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. (Theo văn bản ủy quyền số 359/EHCMC-UQ ngày 05/8/2022). (có mặt)

- Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ N Đi S G G Đị Địa chỉ: số 1, TV, khóm A, phường B, TP. Cà Mau, tỉnh Cà Mau Người đại diện theo pháp luật: Ông V V Đ - chức vụ: Giám đốc Địa chỉ: số 1 T V, khóm A, phường B, TP. C M, tỉnh Cà Mau (váng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 13/11/2020 và quá trình giải quyết vụ án, đại diện nguyên đơn trình bày: Ngày 27/11/2020 Công ty cổ phần Đi S G G Đị (gọi tắt là Công ty S G G Đ) và Công ty TNHH Thương mại dịch vụ N Đi S G G Đị (gọi tắt là Công ty N Đi S G G Đị) có ký hợp đồng số 00189/2020/HĐKT/ nội dung hợp đồng là cung cấp hàng hóa 1.500 tấm pin năng lượng mặt trời của thương hiệu LONGI với các thông số kỹ thuật được đính kèm như hợp đồng. Giá trị của hợp đồng là 4.939.499.400 đồng.

Theo thỏa thuận thì Công ty N Đi S G G Đị phải cung cấp 1.500 tấm pin 445 Wp hiệu LONGI cho Công ty S G G Đ trong khoảng thời gian từ ngày 28/11/2020 đến ngày 05/12/2020. Công ty S G G Đ có nghĩa vụ thanh toán giá trị hợp đồng theo đúng điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng, cụ thể:

Đợt 1: Tạm ứng 50% giá trị hợp đồng tương ứng với số tiền 2.469.749.700 đồng ngay sau ký hợp đồng.

Đợt 2: Thanh toán 50% giá trị hợp đồng tương ứng với số tiền 2.469.749.700 đồng trong vòng 01 ngày kể từ ngày Công ty N Đi S G G Đị thông báo hàng về đến kèm theo lịch giao hàng và gửi yêu cầu thanh toán.

Ngay sau ký hợp đồng ngày 28/11/2020, Công ty S G G Đ đã thực hiện thanh toán bằng ủy nhiệm chi tại Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi Nhánh A P để thanh toán 50% giá trị hợp đồng với số tiền 2.469.749.700 đồng vào số tài khoản chính chủ 6961179686868 của Công ty TNHH TM DVNĐiSGG Đị tại Ngân hàng Quân đội - Chi nhánh Cà Mau.

Ngày 01/12/2020 Công ty N Đi S G G Đị phát hành thông báo thời gian giao hàng số 0189/2020/TB, theo thông báo thì thời gian giao hàng từ ngày 01/12/2020 đến ngày 06/12/2020 và kèm theo thông báo, Công ty N Đi S G G Đị đề nghị thanh toán 50% giá trị hợp đồng còn lại tương đương với 2.469.749.700 đồng. Công ty Sài Gòn Gia Định đã tiếp tục thực hiện hợp đồng thanh toán bằng ủy nhiệm chi tại Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh A P để thanh toán 50% giá trị hợp đồng còn lại với số tiền 2.469.749.700 đồng vào số tài khoản chính chủ 6961179686868 của công ty TNHH TM DV N Đi S G G Đị tại Ngân hàng Quân đội - Chi nhánh Cà Mau.

Tuy nhiên, đến ngày 25/12/2020 Công ty N Đi S G G Đị chỉ giao được 60 tấm pin hiệu Longi loại 445Wp và từ khi thỏa thuận đến ngày 20/01/2021 công ty N Đi S G G Đị nhiều lần phát hành công văn xin gia hạn thời gian giao hàng nhưng không thực hiện và đã có yêu cầu Công ty S G G Đ chủ động thu xếp nguồn hàng khác để đảm bảo hợp đồng thi công của Công ty S G G Đ với đối tác.

Từ những nội dung trên tại đơn khởi kiện Công ty S G G Đ yêu cầu Tòa án buộc Công ty N Đi S G G Đị thanh toán tổng số tiền nợ gốc là 4.939.499.400 đồng và yêu cầu thanh toán lãi tạm tính từ ngày 01/02/2021 đến ngày 30/11/2021 là 234.626.222 đồng. Công ty S G G Đ đồng ý trả lại 60 tấm pin hiệu Longi loại 445Wp sau khi Công ty Võ Gia Thịnh Phát thực hiện xong số tiền đã yêu cầu. Tuy nhiên tại phiên Tòa đại diện nguyên đơn có thay đổi đồng ý đối trừ 60 tấm pin đã nhận được giá mỗi tấm 3.292.999đ x 60 = 197.579.940đ và yêu cầu tính lãi từ ngày 01/02/2021 đến ngày xét xử là 01 năm 06 tháng 15 ngày số tiền là 454.000.000đ.

- Đối với Công ty N Đi S G G Đị trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công Khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và triệu tập hợp lệ nhiều lần, song phía đại diện Công ty N Đi S G G ĐỊ vẫn vắng mặt không rõ lý do nhưng đến ngày 05/8/2022 đại diện Công ty Võ Gia Thịnh có mặt và có ý kiến trình bày thừa nhận đúng là các bên có ký kết hợp đồng số 00189/2020/HĐKT/ nội dung hợp đồng là cung cấp hàng hóa 1.500 tấm pin năng lượng mặt trời của thương hiệu LONGI đúng như đại diện nguyên đơn trình bày với Giá trị của hợp đồng là 4.939.499.400 đồng và vẫn thừa nhận đã nhận tiền đầy đủ nhưng không giao được hàng đúng như đại diện Công ty S G G Đ trình bày. Tuy nhiên, đại diện Công ty N Đi S G G Đị cho rằng lỗi không giao được hàng là do Công ty S G G Đ vi phạm thỏa thuận cụ thể theo hợp đồng thỏa thuận quy định thanh toán tiền ngay nhưng ngày 27/11/2020 ký hợp đồng đến ngày 28/11/2020 Công ty S G G Đ mới chuyển 50% giá trị hợp đồng tương ứng với số tiền 2.469.749.700 đồng; Ngày 01/12/2020 Công ty N Đi S G G Đi phát hành thông báo thời gian giao hàng số 0189/2020/TB, theo thông báo thì thời gian giao hàng từ ngày 01/12/2020 đến ngày 06/12/2020 và kèm theo thông báo, Công ty N Đi S G G Đị đề nghị 50% giá trị hợp đồng còn lại tương đương với 2.469.749.700 đồng. Nhưng đến ngày 03/12/2020 Công ty Sài Gòn Gia Định mới thanh toán tiền. Do Công ty S G G Đ chậm thanh toán nên phía đối tác của Công ty N Đi S G G Đị đã chuyển giao nguồn hàng trên cho người khác nên không thể giao được hàng theo đúng thỏa thuận. Nay Công ty N Đi S G G ĐỊ cho rằng lỗi không thực hiện được hợp đồng là do Công ty S G G Đ nên không đồng ý trả lại tiền theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Tại phiên tòa, Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật, không vi phạm. Căn cứ các Điều 50, 306 Luật Thương mại, Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Công ty N Đi S G G Đị phải chịu án phí theo quy định, nguyên đơn không phải chịu án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tranh chấp giữa các đương sự được xác định là tranh chấp hợp đồng mua bán, chủ thể trong hợp đồng và thực hiện hợp đồng là hai Công ty có tư cách pháp nhân, có mục đích kinh doanh là lợi nhuận nên theo quy định tại điều 30, 35 Bộ luật tố tụng dân sự đây là quan hệ kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thanh phố Cà Mau.

[2] Tại phiên Tòa ngày 05/8/2022 đại diện Công ty N Đi S G G Đị tham gia phiên Tòa và các đương sự đã thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ theo quy định, tại giai đoạn tranh luận đại diện bị đơn khiếu nại ra cho rằng tranh chấp giữa các đương sự đã được Cơ quan điều tra Công an tỉnh Cà Mau thụ lý điều tra nhưng chưa có kết luận cuối cùng nên đề nghị Tòa án đình chỉ xét xử đợi kết quả giải quyết vụ án hình sự làm làm rõ yêu cầu bị đơn, Hội đồng xét xử cho tạm ngừng phiên Tòa để thu thập tài liệu, chứng cứ và ấn định lại ngày xét xử tiếp theo là ngày 12/8/2022, nhưng do công việc đột xuất Hội đồng xét xử đã thông báo dời ngày xét xử lại đến ngày 16/8/2022. Tòa án đã thông báo cho các đương sự dời ngày xét xử nên ngày 12/8/2022 cả nguyên đơn và bị đơn không đến Tòa theo giấy triệu tập. Tuy nhiên, đến 16 giờ 40 phút ngày 15/8/2022 đại diện Công ty N Đi S G G Đị mới có văn bản gửi Tòa án cho rằng mới nhận được thông báo dời ngày xét xử nên không đủ thời gian chuẩn bị và đang trong tình trạng sức khỏe không đảm bảo để có thể tham dự phiên tòa nên yêu cầu Hoãn phiên tòa. Xét thấy yêu cầu này của đại diện bị đơn là không có căn cứ chấp nhận, bởi lẽ đại diện bị đơn đã biết được thời gian dời ngày mở phiên tòa trước nên ngày mở phiên tòa theo ấn định tại Quyết định tạm ngừng phiên tòa (ngày 12/8/2022) mới không đến Tòa. Mặt khác, xét thấy nội dung vụ án đã được các đương sự làm rõ tại phiên tòa ngày 05/8/2022, việc xét xử vắng mặt đại diện bị đơn không làm ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiếp tục phiên xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Về nội dung: Hợp đồng số 00189/2020/HĐKT ngày 27/11/2020 được ký kết giữa Công ty S G G Đ và Công ty N Đi S G G Đị với nội dung hàng hóa giao dịch giữa hai bên là các tấm pin năng lượng mặt trời của thương hiệu LONGI, số lượng hàng hóa 1.500 tấm pin, có giá trị là 4.939.499.400 đồng là có thật. Hiện các đương sự đều thừa nhận vào ngày 28/11/2020, Công ty S G G Đ đã thanh toán 50% giá trị hợp đồng với số tiền 2.469.749.700 đồng cho Công ty N Đi S G G Đị. Đến ngày 01/12/2020 Công ty N Đi S G G Đị phát hành thông báo thời gian giao hàng số 0189/2020/TB, theo thông báo thì thời gian giao hàng từ ngày 01/12/2020 đến ngày 06/12/2020. Công ty Sài Gòn Gia Định đã thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán hợp đồng bằng hình thức ủy nhiệm chi tại Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh A P để thanh toán 50% giá trị hợp đồng còn lại với số tiền 2.469.749.700 đồng vào số tài khoản chính chủ 6961179686868 của công ty N Đi S G G Đị. Đại diện bị đơn vẫn thừa nhận Công ty N Đi S G G Đị chỉ mới giao cho Công ty Sài Gòn Gia Định 60 tấm pin, còn lại 1.440 tấm không thể giao được. Tuy nhiên, đại diện bị đơn cho rằng nguyên nhân không giao được hàng theo thỏa thuận là do lỗi nguyên đơn đã thanh toán tiền không đúng cam kết nên không đồng ý trả lại tiền theo yêu cầu nguyên đơn, yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng, Công ty N Đi S G G Đị sẽ tìm nguồn hàng và giao 1.440 tấm pin còn lại.

Qua xem xét, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại hợp đồng các bên đã thỏa thuận Công ty S G G Đ có nghĩa vụ thanh toán giá trị hợp đồng đợt 1 tạm ứng 50% giá trị hợp đồng tương ứng với số tiền 2.469.749.700 đồng ngay sau ký hợp đồng; đợt 2 thanh toán 50% giá trị hợp đồng tương ứng với số tiền 2.469.749.700 đồng trong vòng 01 ngày kể từ ngày Công ty N Đi S G G Đị thông báo hàng về đến kèm theo lịch giao hàng và gửi yêu cầu thanh toán. Quá trình thanh toán Công ty S G G Đ đã thực hiện đúng cam kết cụ thể ký hợp đồng ngày 27/11/2020, đến ngày 28/11/2020 Công ty S G G Đ đã thực hiện thanh toán bằng ủy nhiệm chi tại Ngân hàng TMCP để thanh toán 50% giá trị hợp đồng với số tiền 2.469.749.700 đồng. Ngày 01/12/2020 Công ty N Đi S G G Đị phát hành thông báo thời gian giao hàng số 0189/2020/TB, theo thông báo thì thời gian giao hàng từ ngày 01/12/2020 đến ngày 06/12/2020 và kèm theo thông báo, Công ty N Đi S G G Đị đề nghị 50% giá trị hợp đồng còn lại tương đương với 2.469.749.700 đồng, ngày 03/12/2020 Công ty Sài Gòn Gia Định đã thanh toán bằng ủy nhiệm chi tại Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh A P đế thanh toán 50% giá trị hợp đồng còn lại với số tiền 2.469.749.700 đồng.

Hiện đại diện công ty N Đi S G G Đị cho rằng Công ty S G G Đ đã vi phạm thời gian thanh toán là 01 ngày nên đối tác của công ty N Đi S G G Đị đã giao hàng cho người khác vì vậy Công ty N Đi S G G ĐỊ không có hàng để giao cho Công ty S G G Đ, lỗi không thực hiện được hợp đồng là của Công ty S G G Đ. Xét lời trình bày của đại diện Công ty N Đi S G G ĐỊ là không có căn cứ chấp nhận. Bởi lẽ, bản thân đại diện bị đơn vẫn thừa nhận Công ty N Đi S G G ĐỊ đã nhiều lần xin gia hạn thời gian cam kết giao hàng và đã được Công ty S G G Đ chấp nhận tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện hợp đồng, nhưng Công ty N Đi S G G Đị vẫn không thể giao hàng được và đề nghị Công ty S G G Đ chủ động tìm kiếm nguồn hàng khác, cụ thể:

- Ngày 07/12/2020, công ty N Đi S G G Đị phát hành thông báo số 0189.01/2020/TB thông báo về việc thay đổi thời gian giao hàng, theo đó thời gian giao hàng được thay đổi cập nhật vào ngày 09/12/2020.

- Ngày 17/12/2020 Công ty N Đi S G G Đị phát hành thông báo số 0189.02/2020/TB thông báo về việc thay đổi thời gian giao hàng, theo đó thời gian giao hàng được thay đổi cập nhật vào ngày 21/12/2020.

- Ngày 21/12/2020 Công ty N Đi S G G Đị phát hành thông báo số 0189.03/2020/TB thông báo về việc thay đổi thời gian giao hàng, theo đó thời gian giao hàng được thay đổi được cập nhật vào ngày 25/12/2020. Nhận được thông báo Công ty S G G Đ có văn bản gửi Công ty N Đi S G G Đị đề nghị được nhận hàng vào ngày 24/12/2020 để kíp tiến độ thi công công trình.

- Ngày 27/12/2020 Công ty N Đi S G G ĐỊ phát hành công văn số 0189/2020/CV với nội dung xin gia hạn thời gian giao hàng đến ngày 27/12/2020, đồng thời có ý kiến đề nghị Công ty S G G Đ chủ động thu xếp nguồn hàng khác để đảm bảo hợp đồng thi công của Công ty S G G Đ với đối tác.

- Công ty S G G Đ đã phát hành công văn số 891CV/EHCMC về việc phản hồi thông báo về việc giao hàng chậm và đề nghị công ty N Đi S G G Đị hoàn trả toàn bộ giá trị hợp đồng chậm nhất là ngày 30/12/2020.

- Ngày 08/01/2021 Công ty N Đi S G G Đị phát hành thông báo số 009.01/2021/TB về việc thay đổi thời gian giao hàng, theo đó thời gian giao hàng được thay đổi cập nhật vào khoảng thời gian từ ngày 12/01/2021 đến ngày 16/01/2021. Cùng ngày Công ty S G G Đ đã có công văn số 13CV/EHCMC đồng ý cho công ty N Đi S G G Đị tiếp tục gia hạn thời gian giao hàng đến ngày 20/01/2021.

- Ngày 20/01/2021, Công ty N Đi S G G Đị tiếp tục thông báo gia hạn thời gian giao hàng đến ngày 13/03/2021, đồng thời Công ty N Đi S G G Đị nhắc lại đề nghị Công ty S G G Đ chủ động mua những nguồn hàng khác để đáp ứng tiến độ thi công công trình và hoàn trả lại tiền. Công ty S G G Đ đã có văn bản chấp thuận đề nghị của Công ty N Đi S G G Đị chủ động tìm kiếm nguồn hàng khác và yêu cầu thanh toán hoàn trả số tiền mà Công ty N Đi S G G Đị đã nhận.

- Ngày 26/01/2021 Công ty S G G Đ gửi văn bản lần 2 yêu cầu hoàn trả số tiền đã chuyển theo hợp đồng trước ngày 01/02/2021.

- Ngày 02/02/2021 Công ty S G G Đ gửi văn bản lần 3 yêu cầu hoàn trả số tiền đã chuyển theo hợp đồng trước ngày 05/02/2021.

- Ngày 06/02/2021 Công ty S G G Đ gửi văn bản lần 4 yêu cầu hoàn trả số tiền đã chuyển theo hợp đồng trước ngày 09/02/2021.

- Ngày 08/05/2021 Công ty S G G Đ gửi văn bản lần 5 yêu cầu hoàn trả số tiền đã chuyển theo hợp đồng.

- Ngày 11/5/2021 Công ty N Đi S G G Đị phát hành văn bản với nội dung xác nhận việc hàng hóa còn lại chưa giao là 1.440 tấm pin hiệu LONGI.

Từ những căn cứ trên cho thấy lỗi không thực hiện được hợp đồng là hoàn toàn do lỗi của phía bị đơn nên việc Công ty S G G Đ khởi kiện yêu cầu Công ty N Đi S G G Đị phải trả lại toàn bộ số tiền nợ gốc là 4.939.499.400 đồng đối trừ số tiền 60 tấm pin đã nhận được với giá mỗi tấm 3.292.999đ = 197.579.940đ = 4.741.919.460đ là hoàn toàn có cơ sở chấp nhận.

[4] Về lãi suất: Hiện nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả tiền lãi do không thực hiện hợp đồng từ ngày 01/02/2021 đến ngày xét xử là 01 năm 06 tháng 15 ngày số tiền là 454.000.000đ. Qua xem xét Hội đồng xét thấy rằng tại hợp đồng đã quy định trong trường hợp Công ty N Đi S G G Đị không giao hàng không đúng số lượng, chất lượng phải chịu phạt là 0,1%/ngày trên giá trị hàng hóa đã chậm giao và vi phạm hợp đồng còn phải bị phạt 30% trên tổng giá trị hợp đồng nên đối với số tiền lãi nguyên đơn đặt ra yêu cầu với mức lãi 6,2%/năm x 557 ngày = 454.881.790đ đại diện nguyên đơn xác định chỉ yêu cầu số chẵn 454.000.000đ là đã có lợi cho bị đơn nên chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 227, 228 của Bộ Luật tố tụng dân sự.

Áp dụng các Điều 50, 306 Luật thương mại; Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần Đi S G G Đị.

Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ N Đi S G G Đị thanh toán cho Công ty cổ phần Đi S G G Đị số tiền là 5.195.919.460đ đồng (trong đó: Nợ gốc 4.741.919.460đ đồng; tiền lãi 454.000.000đ).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.

- Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ N Đi S G G Đị phải nộp 113.196.000 đồng (chưa nộp). Công ty cổ phần Đi S G G Đị không phải nộp. Ngày 12/4/2022 Công ty cổ phần Đi S G G Đị đã nộp tiền tạm ứng án phí là 56.587.000 đồng theo biên lai số 0001143 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau, được nhận lại khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc kể từ ngày bản án đuợc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 19/2022/KDTM-ST

Số hiệu:19/2022/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 16/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về