Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 173/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 173/2022/DS-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Trong các ngày 12 và 14 tháng 9 năm 2022, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 401/2022/TLST-DS ngày 16 tháng 3 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 224/2022/QĐXXST-DS, ngày 11/8/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 199/QĐST-DS ngày 29/8/2022 giữa:

- Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn c; Địa chỉ trụ sở tại: Số 123 ấp 3, xã M, thành phố C, tỉnh Đ. Người đại diện theo pháp luật: Bà Huỳnh Thanh Q1, chức vụ: Giám đốc.

Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn c: Ông Trương T H1, chức vụ: Phó giám đốc. Địa chỉ: Ấp 2, xã P, huyện T, tỉnh Đ (Theo văn bản ủy quyền ngày 12/02/2022, có mặt).

- Bị đơn: Ông Dư Văn S1, sinh năm 1974 (Có mặt);

Địa chỉ: Ấp C, xã N, huyện T, tỉnh Trà Vinh

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Nguyễn Thị M C1, sinh năm 1975 (Có đơn xin xét xử vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp C, xã N, huyện T, tỉnh Trà Vinh

1 2. Ông Võ Văn T1, sinh năm 1965 (Có đơn xin xét xử vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp C, xã N, huyện T, tỉnh Trà Vinh

3. Bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1969 (Có đơn xin xét xử vắng mặt);

4. Ông Cao Văn T2, sinh năm 1967 (Có đơn xin xét xử vắng mặt);

Cùng địa chỉ: Ấp L1, Xã L2, huyện T, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 10/02/2022 của Công ty Trách nhiệm hữu hạn c và người đại diện theo ủy quyền của Giám đốc Công ty trình bày:

Từ ngày 29/6/2020 đến ngày 01/4/2021 Ông Dư Văn S1 có mua thức ăn thủy sản nuôi cá lóc của Công ty Trách nhiệm hữu hạn c (sau đây gọi tắt là Công ty) với tổng số tiền nợ là 701.200.000 đồng, từng lần mua bán thức ăn thì giữa Công ty và ông S1 đều có ký đối chiếu công nợ. Tính đến ngày 28/4/2021 ông S1 còn nợ số tiền gốc là 583.175.000 đồng, ông ty có nhiều lần đôn đốc ông S1 thanh toán tiền nhưng ông S1 không có thiện chí trả. Nay Công ty yêu cầu ông S1 phải trả số tiền nợ gốc 583.175.000 đồng và tiền lãi tạm tính từ ngày 29/6/2020 đến ngày 24/6/2022 là 225.805.360 đồng (lãi suất 1.6%/tháng), tổng cộng yêu cầu ông S1 phải trả số tiền gốc và lãi là 808.980.360 đồng.

- Theo lời trình bày của bị đơn Ông Dư Văn S1:

Ông thừa nhận có mua thức ăn thủy sản (nuôi cá lóc) của Công ty Trách nhiệm hữu hạn c từ ngày 29/6/2020 đến ngày 01/4/2021 với tổng số nợ là 701.200.000 đồng. Tuy nhiên trong thời gian giao thức ăn năm 2020 ông Trương T H1 có hứa với ông chỉ lấy giá 16.000 đồng/kg chứ không phải 18.350 đồng/kg. Lúc này ông làm đại lý cấp I có lấy phẩm của Công ty cho các hộ nuôi, tuy nhiên do cá tuột giá thua lỗ các hộ này không trả đủ tiền nên ông không thể trả nợ. Đến năm 2021 ông H1 có bàn bạc hứa sẽ đổ thức ăn cho 04 hầm cá lóc của ông (02 hầm đã 06 tháng còn 02 hầm mới thả), ông H1 đổ được 32.750kg thức ăn nhưng cá ăn không phát triển, giao phẩm được hơn 01 tháng thì ông H1 buộc ông phải xuất bán hầm cá của ông với ông Võ Văn T1 và hầm cá của bà Nguyễn Thị L1 để trả nợ cho Công ty.

Thời điểm cân cá thì giữa ông H1, ông T1 và ông T3 nhất giá cá bán ra tại hầm của ông T1 là 28.000.000 đồng/kg và giá cá tại hầm bà L1 là 34.000 đồng/kg nhưng ông H1 bán giá rẻ hơn làm thiệt hại cho ông nên ông yêu cầu ông H1 phải bù cho ông số tiền hao hụt lúc cân bán 02 hầm cá vào tiền nợ thức ăn như sau:

+ Tiền nợ thức ăn năm 2020 là 22.000 kg x 16.000 đồng/kg = 352.000.000 đồng;

+ Tiền nợ thức ăn năm 2021 là 32.750 kg x 20.000 đồng/kg = 655.000.000 đồng;

Tổng cộng nợ là 1.007.000.000 đồng.

Sau khi cấn trừ số tiền cân hầm cá của ông Võ Văn T1 là 361.200.000 đồng; tiền cân hầm cá bà Nguyễn Thị L1 là 118.025.000 đồng và số tiền 50.000.000 đồng ông đã trả trước đó thì ông chỉ còn nợ Công ty số tiền gốc là 477.775.000 đồng và đồng ý trả số tiền này. Đối với số tiền nợ gốc còn lại và phần lãi thì không đồng ý trả do năm 2020 ông H1 giao phẩm kém chất lượng.

- Theo lời trình bày của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị M C1:

Bà và Ông Dư Văn S1 là vợ chồng, sự việc cân bán hầm cá của ông S1và ông T1vào ngày 19/3/2021 là do ông Trương T H1 và lái mua cá là bà Trần Thị C2 tự thỏa thuận giá cá với nhau là 28.000 đồng/01kg và thông báo cho bà, ông S1 và ông T1 biết và thống nhất giá nên ông S1 và ông T1 mới đồng ý cho cân bán cá được số lượng 12.900kg để trừ tiền nợ Công ty. Tài sản này là của ông S1 và ông T1, bà không có yêu cầu hay tranh chấp trong vụ án này mà do ông S1và ông T1 tự thỏa thuận với nhau.

- Theo lời trình bày của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn T1:

Ông và Ông Dư Văn S1 có lập tờ giấy tay thỏa thuận hùn nhau nuôi cá lóc tại Ấp C, xã N, huyện T, tỉnh Trà Vinh nội dung ông bỏ công chăm sóc và ao nuôi cá, còn ông S1 thì ra tiền thuốc men, thức ăn cho cá, lời hay lỗ gì thì cũng đều chia đôi với nhau. Ngày 19/3/2021, ông H1 có kêu thương lái tên Trần Thị C2 xuống cân bán hầm cá lóc của ông và ông S1 hùn để trừ tiền nợ của Công ty. Sự việc cân bán cá trừ nợ thì ông có biết và thống nhất cho cân bán vì ông S1 đang còn nợ Công ty. Ông không có yêu cầu ông S1 hoặc Công ty phải trả số tiền bán cá cho ông, ông không có tranh chấp hay yêu cầu gì khác trong vụ án này mà do ông và ông S1 tự thỏa thuận với nhau.

- Theo lời trình bày của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị L1 và ông Cao Văn T2:

Ông Dư Văn S1 có thời gian làm đại lý cấp I của Công ty Trách nhiệm hữu hạn c, có đổ khoảng 200 bao thức ăn cho hầm cá lóc của vợ chồng bà nuôi tại Ấp L1, Xã L2, huyện T, tỉnh Trà Vinh. Hầm cá này vợ chồng đã bỏ ra số tiền 17.000.000 đồng để mua cá giống và bỏ công chăm sóc khoảng 08 tháng trước khi đại diện Công ty kêu thương lái xuống cân bán cá trừ nợ cho ông S1. Do ông S1 nợ tiền của Công ty nên nhiều lần ông H1 cho người xuống nhà ông S1 đòi nợ, vợ chồng ông S1 có liên lạc với bà L1 năn nỉ bán hầm cá của ông bà trừ nợ cho ông S1 với giá cá đã chốt với ông H1 là 35.000 đồng/kg. Ban đầu bà không đồng ý vì số lượng phẩm ông S1 đổ cho hầm cá của bà chỉ khoảng 200 bao nhưng ông H1 muốn cân cả hầm cá để trừ nợ, nhưng do thấy S1 và C1 (là em rễ và em ruột của bà) hoàn cảnh khó khăn đang bị siết nợ, nhiều lần năn nỉ nên bà đồng ý cho Công ty xuống cân 01 hầm cá lóc của vợ chồng bà trừ nợ nhưng phải đưa tiền cọc cho bà 40.000.000 đồng. Tuy nhiên cùng ngày xuống cân cá thì bà C1 trực tiếp đến hầm chứng kiến bắt cá và đưa cho bà 20.000.000 đồng tiền cọc. Sau khi cân xong thì người làm thuê của thương lái có thông báo số lượng cá bắt được là 4.300kg, còn quy ra giá cá và số tiền cụ thể bao nhiêu thì bà không được biết, ngoài số tiền 20.000.000 đồng bà C1 đưa thì vợ chồng bà không nhận khoản tiền nào khác từ Công ty hoặc thương lái. Nay ông bà không có tranh chấp với ông S1, bà C1 hoặc Công ty về số lượng cá cân được, giá cá đã cân để trừ nợ cho ông S1 mà do ông S1 và Công ty tự tính toán với nhau, ông bà không có tranh chấp và không có yêu cầu độc lập trong vụ án này.

Tại phiên tòa hôm nay, người đại diện theo ủy quyền của Công ty Trách nhiệm hữu hạn c vẫn giữ nguyên yêu cầu Ông Dư Văn S1 phải trả số tiền nợ vốn gốc là 583.175.000 đồng và thay đổi yêu cầu tính lãi nợ, chỉ yêu cầu tính lãi của số nợ gốc 583.175.000 đồng từ ngày 29/4/2021 đến ngày xét xử sơ thẩm với lãi suất bằng 0,83%/tháng. Công ty không có tranh chấp với bà Nguyễn Thị M C1, ông Võ Văn T1, bà Nguyễn Thị L1 về số tiền nợ thức ăn, không yêu cầu những người này liên đới trả nợ. Bị đơn Ông Dư Văn S1 không đồng ý trả cho Công ty số tiền gốc 583.175.000 đồng mà chỉ đồng ý trả số tiền 477.775.000 đồng và không đồng ý trả lãi. Các đương sự không cung cấp bổ sung thêm tài liệu chứng cứ mới tại phiên tòa, không yêu cầu Tòa án thu thập thêm tài liệu, chứng cứ và không yêu cầu triệu tập người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Trà Vinh kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự tại phiên tòa cho rằng việc thụ lý vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán” là đúng quan hệ tranh chấp. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự đảm bảo đúng quy định. Về đưa người tham gia tố tụng, Tòa án đã đưa đầy đủ trong hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay nên việc xét xử đúng pháp luật. Tại phiên tòa bà Nguyễn Thị M C1, bà Nguyễn Thị L1, ông Võ Văn T1 vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người này.

Về nội dung vụ án: Sau khi phân tích nội dung vụ án kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông S1 phải có trách nhiệm trả cho Công ty số tiền nợ gốc là 583.175.000 đồng và buộc ông S1 trả lãi theo quy định pháp luật. Ông S1 không có đơn yêu cầu phản tố về yêu cầu cấn trừ giá cá chênh lệch nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, những người có liên quan là bà Nguyễn Thị L1, ông Cao Văn T2, ông Võ Văn T1 do không có yêu cầu độc lập trong vụ án này nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Về án phí: Buộc bị đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Công ty Trách nhiệm hữu hạn c khởi kiện Ông Dư Văn S1 phải trả số tiền nợ thức ăn, quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp hợp đồng mua bán”. Bị đơn cư trú tại Ấp C, xã N, huyện T, tỉnh Trà Vinh. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Trà Vinh.

[2] Về đưa người tham gia tố tụng và hòa giải: Căn cứ vào đơn khởi kiện của nguyên đơn Tòa án đã đưa ông S1 vào tham gia tố tụng với tư cách bị đơn trong vụ án, đưa bà Nguyễn Thị L1, ông Cao Văn T2, ông Võ Văn T1 với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Tại phiên tòa hôm nay những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng đã có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt, do đó căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[3] Về nội dung: Công ty Trách nhiệm hữu hạn c (sau đây gọi tắt là Công ty) yêu cầu ông S1 phải trả số tiền nợ gốc 583.175.000 đồng và tiền lãi. Xét yêu cầu khởi kiện của Công ty là có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận; Bởi lẽ:

Theo các tài liệu chứng cứ Công ty giao nộp là 06 biên bản đối chiếu công nợ thể hiện từ ngày 29/6/2020 đến ngày 01/4/2021 Ông Dư Văn S1 có nhiều lần mua thức ăn thủy sản nuôi cá lóc với tổng số tiền nợ là 701.200.000 đồng. Cụ thể: Ngày 29/6/2020, Công ty giao cho ông S1 22.000 kg thức ăn thủy sản GS 42 (42% đạm) với đơn giá là 18.350.000đồng/kg bằng số tiền 403.700.000 đồng (bút lục số 08); Tiếp tục từ ngày 19/01/2021 cho đến ngày 01/4/2021, Công ty giao cùng một loại thức ăn thủy sản GS 42 (42% đạm) cho ông S1 với cùng đơn giá là 20.000 đồng/kg (bút lục số 98) với tổng số tiền nợ 655.000.000 đồng (bút lục số 9-13); Bị đơn ông S1 đã được Tòa án nhân dân huyện T sao gửi toàn bộ các chứng cứ này nhưng ông S1 không phản đối mà thừa nhận từ ngày 29/6/2020 đến ngày 01/4/2021 có mua thức ăn của Công ty với số lượng thức ăn, giá, loại thức ăn của năm 2021 như Công ty yêu cầu, thừa nhận ông có ký 06 biên bản đối chiếu công nợ xác nhận nợ từ ngày 29/6/2020 đến ngày 01/4/2021 là 701.200.000 đồng. Nhưng ông S1 cho rằng do thức ăn của Công ty giao năm 2020 kém chất lượng nên thỏa thuận với ông lấy giá 16.000 đồng/kg không phải giá 18.350 đồng/kg như ông H1 trình bày nên ông chỉ đồng ý trả tiền nợ thức ăn năm 2020 với 16.000 đồng/kg. Mặc dù ông S1 có cung cấp cho Tòa án “Giấy thông báo đòi nợ ngày 29/10/2020” của Công ty, nhưng lời trình bày của ông S1 không được ông H1 thừa nhận mà cho rằng Công ty chỉ thỏa thuận trong thời hạn 01 tháng nếu ông S1 trả đủ số tiền nợ năm 2020 thì Công ty mới giảm giá cho ông S1 là 2.350 đồng/kg, ông S1 không thực hiện theo thỏa thuận nên Công ty không đồng ý giảm giá cho ông S1 mà yêu cầu tính giá niêm yết là 18.350 đồng/kg. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhân dân huyện T đã ra Quyết định yêu cầu ông S1 cung cấp chứng cứ minh nhưng ngoài thông báo trên ông S1 không cung cấp được chứng cứ nào khác nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của ông S1 tính giá thức ăn là 16.000 đồng/kg mà buộc ông S1 phải trả tiền nợ thức ăn cho Công ty theo như biên bản đối chiếu công nợ mà ông S1 đã ký nhận nợ.

[4] Xét lời trình bày của ông S1 cho rằng giữa ông và ông H1có thỏa thuận cấn trừ tiền cân 2 hầm cá của bà L1 và ông T1 vào tiền nợ thức ăn Công ty là có căn cứ vì phía đại diện Công ty là ông H1 thừa nhận Công ty có kêu thương lái thu mua cá giùm cho ông S1 để cân bán hầm cá của bà L1 và ông T1 để cấn trừ tiền nợ thức ăn trong tháng 3 và tháng 4 năm 2021 và tiền cân cá do thương lái chuyển trực tiếp vào tài khoản Công ty sau khi có sự đồng ý của ông S1, bà Lệ. Tuy nhiên việc ông S1 yêu cầu phải tính giá 28.000 đồng/kg với số lượng 12.900kg đối với hầm của ông T1 và 34.000 đồng/kg và số lượng 4.300kg đối với hầm của bà L1 là không có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận; Bởi lẽ:

[4.1] Đối với số lượng cá và giá hầm cá của ông Võ Văn T1: Là do ông S1 và ông T1 hùn nuôi với nhau, quá trình Tòa án đối chất giữa ông S1 ông H1 và ông T1 thì các bên không thống nhất được với nhau về số lượng cá cân được tại hầm vào tháng 3 năm 2021 cũng như không thống nhất với nhau về giá cá. Mặc dù ông S1 và ông T1 cho rằng thời điểm trước khi cân cá giữa ông S1, ông T1 và ông H1 có thỏa thuận với nhau thống nhất giá cá lóc bán cho thương lái Trần Thị C1 là 28.000 đồng/kg với số lượng là 12.900kg nhưng không được ông H1 thừa nhận mà chỉ thừa nhận có thỏa thuận giá là 26.000 đồng/kg, Tòa án đã ra quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ nhưng ông S1 và ông T1 không chứng minh được có hóa đơn sổ sách có xác nhận của bà Trần Thị C1 là thương lái đã cân cá với số lượng và giá như ông S1 và ông T1 trình bày; không chứng minh được giữa hai bên có văn bản thỏa thuận giá cá là 28.000 đồng/kg. Đối với ông H1 cho rằng Công ty không biết số lượng cá nhưng số tiền cân cá sau khi được sự đồng ý của ông S1 bà C1 thì thương lái đã chuyển vào tài khoản Công ty số tiền 307.500.000 đồng ngày 19/3/2021 và Công ty đã thống nhất trừ vào tiền nợ không có tranh chấp với bà Trần Thị C1. Mặc dù cả nguyên đơn, bị đơn, người liên quan đều không cung cấp được chứng cứ chứng minh số lượng cá thực tế cân được cũng như giá cá thỏa thuận nhưng căn cứ kết quả xác minh thương lái thu mua cá và số tiền thương lái xác nhận đã chuyển vào tài khoản Công ty và sổ phụ tài khoản do Công ty cung cấp cho Tòa án là phù hợp với lời trình bày của ông H1 về giá cá (bút lục số 101). Ông S1 và ông T1 cho rằng hầm cá do hai ông hùn làm ăn với nhau nhưng khi thương lái xuống cân bắt thì ông S1, ông T1 và bà C1 không có ngăn cản, không có ý kiến phản đối về số lượng cũng như giá cá mà sau khi cân cá xong thống nhất để thương lái chuyển số tiền 307.500.000 đồng vào tài khoản Công ty để trừ nợ và ngày 1/4/2021 ông S1 đã ký vào biên bản đối chiếu công nợ xác nhận đã cấn trừ xong tiền cân cá hầm của ông T1 số tiền 307.500.000 đồng (tại bút lục số 10) do đó lời nại ra của ông S1 buộc Công ty phải bù cho ông số tiền chênh lệch là không có cơ sở để chấp nhận.

[4.2] Đối với số lượng cá và giá hầm cá của bà Nguyễn Thị L1: Mặc dù ông S1 và bà C1, bà L1 đều cho rằng trước đó giữa ông S1 và ông H1 đã thống nhất giá 34.000 đồng/kg nên mới đồng ý cho bà 5 C2 là thương lái xuống cân bán cá của bà L1 trừ nợ, số lượng cá cân được tại hầm bà L1 vào tháng 4 năm 2021 là 4.300kg và trước khi cân cá bà L1 có nhận tiền cọc từ bà C1 là 20.000.000 đồng. Nhưng ông H1 không thừa nhận giá của ông S1, bà C1, bà L1 đưa ra mà chỉ thừa nhận giá 32.000 đồng/kg, đồng thời ông H1 cho rằng trước khi cân cá thì bà L1 có nhận tiền cọc 40.000.000 đồng, tại bản tự khai ông Bùi M V1 là người được ông H1 phân công trực tiếp chứng kiến việc cân bắt cá hầm của bà L1 cho rằng ông có đưa cho bà L1 tiền cọc 40.000.000 đồng (bút lục số 181). Tuy nhiên số tiền này không được bà Lệ, bà C1 và ông S1 thừa nhận mà chỉ thừa nhận bà L1 có nhận 20.000.000 đồng tiền cọc từ bà C1 đưa cho bà L1 và tiền này do thương lái đặt cọc; đối với ông V1, ông H1 cũng không cung cấp được biên nhận chứng minh nên không có cơ sở cho rằng bà L1 có nhận cọc 40.000.000 đồng từ ông V1. Tòa án đã ra quyết định yêu cầu nguyên đơn, bị đơn cung cấp chứng cứ chứng minh nhưng các đương sự không chứng minh được. Mặc dù cả nguyên đơn, bị đơn, người liên quan không chứng minh được số lượng, giá cá và kết quả Tòa án xác minh thương lái thu mua cá hầm bà L1 không chứng minh được số lượng và giá cá mà các bên thỏa thuận tại thời điểm cân cá. Nhưng căn cứ vào số tiền 118.025.000 do ông Võ N H1 là chủ tài khoản đồng thời là thương lái mua cá (chồng của bà 5 C2) đã chuyển vào tài khoản Công ty trong ngày 28/4/2022 theo sổ phụ Công ty cung cấp (bút lục số 99-101) và bao gồm cả số tiền cọc 20.000.000 đồng mà bà L1 khai đã nhận từ bà Nguyễn Thị M C1 (bút lục số 190) là tương đương với số lượng 4.300 kg với giá 32.000đồng/kg = 137.600.000 đồng; trong đó trừ đi số tiền cọc đưa cho bà C1 được bà C1, bà L1 thừa nhận là 20.000.000 đồng, số tiền còn lại tương đương số tiền 118.025.000 đồng mà chủ tài khoản ông Võ N H1 (thương lái cá) chuyển khoản vào tài khoản Công ty. Đối với ông S1 mặc dù không đồng ý với giá 32.000 đồng/kg mà yêu cầu tính giá 34.000 đồng/kg và ông không ký tên vào biên bản đối chiếu công nợ lần cuối để cấn trừ số tiền 118.025.000 đồng này với Công ty nhưng ông không làm đơn yêu cầu phản tố về giá cá chênh lệch để Tòa án xem xét, không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh lời trình bày của ông là có cơ sở để Hội đồng xét cử xem xét chấp nhận giá 34.000 đồng/kg để cấn trừ nhiều hơn số tiền ông Võ N H1 đã chuyển vào tài khoản Công Ty để trừ nợ.

[4.3] Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty, sau khi cấn trừ đi số tiền 307.500.000 đồng ngày 19/3/2021 do bà Trần Thị C1 đã chuyển khoản khi cân hầm cá của ông Võ Văn T1, cấn trừ số tiền 118.025.000 vào ngày 28/4/2021 mà ông Võ N H1 đã chuyển khi cân hầm cá của bà Nguyễn Thị L1 theo sổ phụ Công ty cung cấp và số tiền 50.000.000 đồng Ông Dư Văn S1 đã trả trước đó, buộc ông S1phải trả tiếp số tiền gốc còn nợ Công ty là 583.175.000 đồng.

[5] Về yêu cầu tính tiền lãi chậm thanh toán: Tại phiên tòa Công ty có thay đổi yêu cầu tính lãi chậm trả, chỉ yêu cầu ông S1 phải trả tiền lãi của số nợ gốc 583.175.000 đồng từ ngày 29/4/2021 đến ngày xét xử sơ thẩm với lãi suất 0,83%/tháng là có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận.

Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về “Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền” như sau:

1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả;

2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này.

Khi thực hiện việc mua bán thức ăn giữa Công ty với ông S1 không có quy định việc phải trả lãi cụ thể do chậm thực hiện nghĩa vụ, hai bên không có hợp đồng mua bán với nhau, không có thỏa thuận lãi cụ thể, nhưng do ông S1 chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền đối với vố tiền vốn phải trả nên ông S1 phải có nghĩa vụ trả lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả nợ với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Thời gian thực hiện chậm trả được tính theo yêu cầu của Công ty từ ngày 29/4/2021 đến ngày xét xử sơ thẩm là 16 tháng 13 ngày với lãi suất 10%/năm (bằng 0,83%/tháng). Cụ thể: Số tiền 583.175.000 đồng x 0,83%/tháng x 16 tháng 13 ngày = 79.543.176 đồng Tổng cộng vốn và lãi phải trả là 662.718.176 đồng.

[6] Đối với ông Võ Văn T1 không có yêu cầu ông S1 hoặc Công ty phải trả số tiền bán cá cho ông, ông không có tranh chấp hay yêu cầu gì khác trong vụ án này mà do ông và ông S1 tự thỏa thuận với nhau. Do ông T1 không có tranh chấp và không có yêu cầu độc lập nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[7] Đối với bà Nguyễn Thị L1 và ông Cao Văn T2, ông bà xác định không có tranh chấp gì với ông S1, bà C1 hoặc Công ty về việc Công ty kêu thương lái cân bán cá để trừ nợ cho ông S1, mà do ông S1 và Công ty tự tính toán với nhau, ông bà không có tranh chấp và không có yêu cầu độc lập trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[8] Xét thấy quan điểm đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T là có căn cứ nên chấp nhận toàn bộ.

[9] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn c, buộc bị đơn Ông Dư Văn S1 phải trả số tiền nợ gốc và lãi tổng cộng là 662.718.176 đồng.

[10] Về án phí: Buộc bị đơn phải chịu theo quy định của pháp luật;.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 5, khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 244, Điều 273 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; căn cứ Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn c.

Buộc Ông Dư Văn S1 phải trả cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn c số tiền nợ gốc và lãi là 662.718.176 đồng (Sáu trăm sáu mươi hai triệu bảy trăm mười tám ngàn một trăm bảy mươi sáu đồng). Trong đó tiền nợ gốc là 583.175.000 đồng và lãi là 79.543.176 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật của bên được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm cho bên được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

2. Về án phí: Buộc Ông Dư Văn S1 phải chịu số tiền 30.508.727 đồng (Ba mươi ba triệu năm trăm lẻ tám ngàn bảy trăm hai mươi bảy đồng) án phí dân sự sơ thẩm;

Hoàn trả cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn c số tiền tạm ứng án phí đã nộp 17.282.000 đồng (Mười bảy triệu hai trăm tám mươi hai ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0008906 ngày 15 tháng 3 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh.

3. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai báo cho nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; riêng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai để xin Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 173/2022/DS-ST

Số hiệu:173/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiểu Cần - Trà Vinh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về