TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 14/2023/KDTM-PT NGÀY 22/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN
Ngày 22 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý số 03/2023/TLPT-KDTM ngày 22 tháng 5 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán” Do bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2023/KDTM-ST ngày 27/3/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 09/2023/QĐ-PT ngày 11 tháng 7 năm 2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty Cổ phần V. Trụ sở: số B, đường B, KDC A, phường T, Quận G, thành phố Hồ Chí Minh (Gọi tắt là Công ty V1) Đại diện theo pháp luật của công ty: Bà Nguyễn Lương N. Chức vụ: Giám đốc.
Đại diện theo ủy quyền: Chị Nguyễn Thị Trang N1, Sinh năm: 1997; Địa chỉ cư trú: Số B đường B, KDC A, phường T, quận G, thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
Bị đơn: Công ty TNHH T. Trụ sở: Ấp B, xã L, thành phố C, tỉnh Cà Mau. (gọi tắt là Công ty T) Đại diện theo pháp luật của công ty: Ông Võ Văn Đ. Chức vụ: Tổng Giám đốc (vắng mặt).
Người kháng cáo: Công ty cổ phần V là nguyên đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 18/11/2020, giữa Công ty cổ phần V và Công ty TNHH T có ký kết hợp đồng kinh tế số: 00190/2020/HĐKT/vogiathinhvuong - Vinam Petrol. Theo hợp đồng trên, công ty T cung cấp cho công ty V1 4.494 tấm pin năng lượng mặt trời thương hiệu LONGI, model: LR4-72HPH-445M (445W/tấm) với tổng giá trị hợp đồng: 14.023.810.000 đồng, đã bao gồm thuế giá trị gia tăng. Việc giao hàng chia làm 02 đợt, cụ thể: Đợt 1, giao từ ngày 24/11/2020 đến ngày 26/11/2020 với số lượng 2.247 tấm pin. Đợt 2, giao từ ngày 26/11/2020 đến ngày 29/11/2020 với số lượng 2.247 tấm pin.
Ngày 25/11/2020, công ty T đã giao cho công ty V1 1.980 tấm pin. Ngày 28/11/2020, công ty T đã giao cho công ty V1 268 tấm pin. Tổng nhận đợt 1 là 2248 tấm pin.
Ngày 19/12/2020 công ty T đã giao cho công ty V1 1.890 tấm pin. Tổng 02 đợt, Công ty T đã giao cho công ty V1 là 4.138 tấm pin. Công ty V1 đã thanh toán đủ cho công ty T tổng số tiền 14.023.810.000 đồng như hợp đồng đã ký kết.
Đối với 2248 tấm pin đã giao đợt 01: Tại đơn khởi kiện do công ty T chưa giao hóa đơn giá trị gia tăng nên công ty V1 khởi kiện yêu cầu công ty T hoàn lại 10% thuế giá trị gia tăng mà công ty V1 đã thanh toán cho công ty T với số tiền 637.729.602 đồng và yêu cầu công ty T bồi thường thiệt hại do công ty T không xuất hóa đơn nên công ty V1 không được ghi nhận vào giá vốn hàng hóa và phải chịu 20% thuế thu nhập doanh nghiệp với số tiền 1.275.459.204 đồng. Tuy nhiên, trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết, công ty T đã giao cho công ty V1 hóa đơn giá trị gia tăng đối với số lượng hàng hóa trên nên tại phiên Tòa, đại diện Công ty V1 có thay đổi yêu cầu khởi kiện, rút lại toàn bộ yêu cầu khởi kiện trên đối với công ty T.
Đối với 1890 tấm pin đã giao đợt 2: Công ty V1 nhưng không xuất hóa đơn giá trị gia tăng trong khi thanh toán tiền hàng theo hợp đồng công ty V1 đã thanh toán cả tiền thuế giá trị gia tăng. Công ty V1 khởi kiện yêu cầu cụ thể như sau:
Yêu cầu công ty T hoàn lại công ty V1 10% thuế giá trị gia tăng mà công ty V1 đã thanh toán cho công ty T bằng số tiền 536.169.461 đồng. (Tổng giá trị hàng hóa của 1890 chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng: 5.361.694.610 đồng. Thuế giá trị gia tăng 10% bằng số tiền 536.169.461 đồng).
Tại đơn khởi kiện công ty V1 yêu cầu công ty T phải bồi thường thiệt hại là tiền thuế thu nhập doanh nghiệp mà công ty V1 phải nộp ngân sách nhà nước đối với 1890 tấm pin trên bằng số tiền 1.072.338.922 đồng. (20% x 5.361.694.610 đồng = 1.072.338.922 đồng). Tại phiên tòa, đại diện công ty V1 thay đổi số tiền yêu cầu, cụ thể yêu cầu công ty T bồi thường số tiền 993.372.311 đồng.
Đối với số lượng pin 356 chưa giao: Theo đơn khởi kiện công ty chưa giao 357 tấm pin tương đương giá trị 1.114.040.991 đồng, đã bao gồm thuế giá trị gia tăng. Tuy nhiên, do nhầm lẫn số liệu nên tại phiên tòa, đại diện công ty V1 xác định số lượng pin còn lại Công ty T chưa giao cho công ty V1 là 356 tấm, tương đương giá trị 1.110.920.428 đồng, đã bao gồm thuế giá trị gia tăng, có thay đổi so với đơn khởi kiện. Nay công ty V1 yêu cầu công ty T hoàn trả lại số tiền 1.110.920.428 đồng.
Ngoài ra, theo quy định tại điều 10 của hợp đồng đôi bên có thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng, mức phạt 0,1%/ngày trên giá trị hàng hóa chậm giao và tại đơn khởi kiện công ty V1 yêu cầu công ty T 686.249.250 đồng. Tuy nhiên, tại phiên Tòa, đại diện công ty V1 xác định việc đôi bên thỏa thuận mức phạt như trên là cao nên có thay đổi mức phạt vi phạm là 10%/năm. Thời hạn tính lãi từ ngày 30/11/2020 đến ngày 24/3/2023 là 844 ngày, bằng số tiền 256.881.326 đồng.
Như vậy, tổng số tiền công ty V1 yêu cầu công ty T phải thanh toán là 2.897.343.526 đồng.
Tại bản tự khai ngày 17/01/2023, ông Võ Văn Đ, là đại diện theo pháp luật của công ty T trình bày: Vào ngày 18/11/2020, giữa Công ty T với công ty V1 có ký kết hợp đồng kinh tế số: 00190/2020/HĐKT/vogiathinhvuong - Vinam Petrol. Theo hợp đồng trên, công ty T cung cấp cho công ty V1 4.494 tấm pin năng lượng mặt trời thương hiệu LONGI, model: TR4-72HPH-445M (445W/tấm) với tổng giá trị hợp đồng: 14.023.810.000 đồng, đã bao gồm thuế giá trị gia tăng.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, công ty T đã giao cho công ty V1 4.138 tấm pin. Trong 4.138 tấm pin, công ty V1 đã xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho 2.248 tấm pin với tổng giá trị là 7.015.026.973 đồng. Phần còn lại 1.890 tấm pin, công ty T không xuất hóa đơn giá trị gia tăng vì công ty V1 không thừa nhận bằng văn bản và công ty V1 đã nhiều lần gửi biên bản bàn giao hàng hóa cho công ty V1 nhưng công ty V1 chưa ký biên bản và gửi lại cho công ty T nên công ty T chưa có cơ sở để xuất hóa đơn cho số lượng hàng hóa trên.
Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/KDTM-ST ngày 27/3/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần V.
- Buộc Công ty TNHH T thanh toán cho Công ty cổ phần V số tiền 1.735.964.000 đồng.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần V về việc buộc Công ty TNHH T thanh toán số tiền 1.161.380.000 đồng.
Đình chỉ yêu cầu của Công ty cổ phần V về việc buộc Công ty TNHH T thanh toán 1.913.188.806 đồng.
Án phí kinh doanh thương mại có giá ngạch: Công ty TNHH T phải chịu án phí 64.079.000 đồng (chua nộp). Công ty cổ phần V phải chịu án phí 46.841.000 đồng.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo luật định.
Ngày 03/4/2023 Công ty cổ phần V kháng cáo yêu cầu xem xét lại bản án yêu cầu Công ty T bồi thường thiệt hại do việc không xuất hóa đơn số tiền thuế thu nhập doanh nghiệp là 993.372.311đ; Yêu cầu hoàn trả số tiền 1.110.917.824đ của 356 tấm pin chưa giao. Mức lãi phạt chậm trả là 10% trên số tiền 1.110.917.824đ. Tiền thuế giá trị gia tăng 10% của đợt giao hàng thứ hai 1.890 tấm pin.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, về yêu cầu kháng cáo xin rút lại phần bồi thường số tiền thuế thu nhập doanh nghiệp là 993.372.311đ.
Bị đơn không có kháng cáo, tại phiên tòa vắng mặt. Bị đơn có đơn yêu cầu hoãn phiên tòa lý do sức khỏe không bảo đảm và yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ danh sách nhân viên của Công ty V, nhưng bị đơn chỉ nộp sổ khám sức khỏe ngày 21/8/2023, không chứng minh có bệnh nặng, thuộc trường hợp có lý do chính đáng do bất khả kháng. Do đó hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và việc xét xử vắng mặt bị đơn không ảnh hưởng quyền lợi bị đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự. Không chấp nhận kháng cáo của Công ty cổ phần V. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2023/KDTM-ST ngày 27/3/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Xét kháng cáo của Công ty cổ phần V còn trong thời hạn luật định. Nội dung kháng cáo yêu cầu bồi thường số tiền thiệt hại do Công ty T không xuất hóa đơn số tiền là 993.372.311đ. Đối với yêu cầu này Công ty V xin rút lại, do đó hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với việc yêu cầu bồi thường số tiền 993.372.311đ. Phần kháng cáo còn lại Công ty V vẫn giữ nguyên.
[2] Xét Hợp đồng kinh tế số: 00190/2020/HĐKT/vogiathinhvuong - Vinam Petrol ngày 18/11/2019. Theo hợp đồng trên, Công ty T cung cấp cho Công ty V 4.494 tấm pin năng lượng mặt trời thương hiệu LONGI, model: LR4-72HPH-445M (445W/tấm) với tổng giá trị hợp đồng: 14.023.810.0009 (Đã bao gồm thuế giá trị gia tăng).
Quá trình thực hiện hợp đồng Công ty T đã giao 2.248 tấm pin của đợt 1, đợt giao hàng lần thứ 2 là 1.890 tấm Pin. Đối với lần giao hàng đợt 1 Công ty Vinam Petrol cho là chưa xuất hóa đơn. Ngày 22/6/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh C làm việc với Công ty T do ông Võ Văn Đ đại diện đã thừa nhận có xuất hóa đơn cho Công ty V theo số 00000031 ngày 28/11/2020 trị giá 7.015.026.973. Như vậy đợt giao hàng thứ 2 còn lại 1.890 tấm pin chưa có căn cứ chứng minh phía bị đơn đã xuất hóa đơn số tiền 5.361.694.610 đồng. Vì vậy cấp sơ thẩm đã buộc phía bị đơn hoàn trả cho nguyên đơn 10% thuế giá trị gia tăng số tiền 536.169.461 đồng là có cơ sở. Tại đơn kháng cáo Công ty V thừa nhận lô hàng thứ 2 đã xuất bán cho khách hàng bên thứ ba, nên tiền thuế doanh nghiệp bị tác động bởi lô hàng đã mua.
Do Công ty V đã thanh toán đủ số tiền theo hợp đồng 14.023.810.000 đồng, nhưng Công ty T không giao 356 tấm pin còn lại nên việc Công ty V yêu cầu Công ty T phải trả lại số tiền hàng 1.110.920.428 đồng là có cơ sở chấp nhận. Án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp.
[3] Xét yêu cầu của Công ty V về tính lãi phạt do Công ty T không giao 356 tấm pin, mức phạt 10%/năm. Thời gian từ ngày 30/11/2020 đến ngày 24/3/2023 là 844 ngày, bằng số tiền 256.881.326 đồng. Nhận thấy, đây là vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại nên được áp dụng theo luật chuyên ngành. Tại Điều 300 của Luật thương mại quy định về phạt vi phạm hợp đồng. Tại Điều 10 của hợp đồng có thỏa thuận về phạt do vi phạm hợp đồng, đối chiếu với quy định trên, Công ty V yêu cầu phạt hợp đồng là có cơ sở.
Công ty V đề nghị áp dụng mức 10%/năm, bằng số tiền 256.881.326 đồng. Theo quy định tại Điều 301 của Luật thương mại quy định về mức phạt vi phạm thì “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm hợp đồng do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm...” Án sơ thẩm chấp nhận số tiền lãi phạt tối đa Công ty T phải chịu là 8% x 1.110.920.428 đồng = 88.873.634 đồng là phù hợp pháp luật quy định.
Đối với việc đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Công ty V do công ty rút lại tại phiên tòa sơ thẩm. Xét thấy, việc rút 01 phần yêu cầu khởi kiện, thay đổi yêu cầu khởi kiện trên không vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu, phù hợp với khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được chấp nhận. Án sơ thẩm đã đình chỉ việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần V là phù hợp.
[4] Tại phiên tòa phúc thẩm Công ty V rút lại phần yêu cầu bồi thường thuế thu nhập doanh nghiệp số tiền 993.372.311đ. Do đó đình chỉ phần kháng cáo này của Công ty V. Như vậy án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của Công ty V các khoản gồm 1.110.920.428 đồng + 536.169.461 đồng + 88.873.634 đồng = 1.735.964.000 đồng là phù hợp.
Tại phiên tòa Phúc thẩm người kháng cáo Công ty V không đưa ra tài liệu chứng cứ nào mới để làm căn cứ kháng cáo và cũng như các phân tích trên, nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của Công ty V.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát đề nghị hội đồng xét xử giữ nguyên bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau. Không chấp kháng cáo của nguyên đơn. Đề nghị này là phù hợp với các phân tích trên.
[5] Án phí Kinh doanh thương mại sơ thẩm: Công ty TNHH T phải chịu án phí 64.079.000 đồng. Công ty cổ phần V phải chịu án phí 46.841.000 đồng. Ngày 12/10/2022 Công ty cổ phần V đã nộp 56.661.000 đồng được đối trừ. Công ty cổ phần V được nhận lại 9.820.000 đồng.
[6] Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Công ty cổ phần V phải chịu.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận việc rút một phần kháng cáo của Công ty cổ phần V. Đình chỉ xét xử phúc thẩm một phần kháng cáo của Công ty cổ phần V về việc yêu cầu Công ty TNHH T bồi thường số tiền thuế thu nhập doanh nghiệp số tiền là 993.372.311 đồng.
Không chấp nhận kháng cáo của Công ty cổ phần V.
Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/KDTM-ST ngày 27/3/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.
Tuyên Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần V.
- Buộc Công ty TNHH T thanh toán cho Công ty cổ phần V số tiền 1.735.964.000 đồng.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần V về việc buộc Công ty TNHH T thanh toán số tiền 1.161.380.000 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày Công ty cổ phần V có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong các khoản tiền, hàng tháng Công ty TNHH T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
Đình chỉ yêu cầu của Công ty cổ phần V về việc buộc Công ty TNHH T thanh toán 1.913.188.806 đồng.
2. Án phí kinh doanh thương mại có giá ngạch: Công ty TNHH T phải chịu án phí 64.079.000 đồng (chưa nộp). Công ty cổ phần V phải chịu án phí 46.841.000 đồng. Ngày 12/10/2022 Công ty cổ phần V đã nộp 56.661.000đồng. Tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau theo biên lai số 0002301 được đối trừ. Công ty cổ phần V được nhận lại 9.820.000 đồng.
Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Công ty cổ phần V phải chịu 2.000.000đ. Ngày 19/4/2023 Công ty cổ phần V đã dự nộp tạm ứng án phí phúc thẩm số tiền 2.000.000đ lai số 0002304 tại chi cục Thi hành dân sự thành phố C, được chuyển thu.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 14/2023/KDTM-PT
Số hiệu: | 14/2023/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 22/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về