TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. QUY NHƠN - T. BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 76/2021/KDTM-ST NGÀY 25/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Ngày 25 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn - tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 19/2021/TLST-KDTM ngày 13 tháng 4 năm 2021 về “Tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 141/2021/QĐXXST-KDTM ngày 12/7/2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty cổ phần V Trụ sở: Tầng 6 Tòa nhà DITP, Lô A2-19, đường T, Phường N, Quận LC, thành phố ĐN.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Văn K - Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đỗ Phúc T - Trưởng Phòng khách hàng. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) (Theo giấy ủy quyền số 332/UQ-DXV ngày 01/4/2021).
2. Bị đơn: Công ty TNHH D Trụ sở: 70 đường Đ, phường C, thành phố QN, tỉnh BĐ.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thanh H - Giám đốc. (Vắng mặt không lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn Công ty cổ phần V:
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Tuy nhiên, theo đơn khởi kiện đề ngày 01/4/2021 và các lời khai tiếp theo, người đại diện theo ủy quyền ông Đỗ Phúc T trình bày: Ngày 01/3/2017 Công ty cổ phần V với Công ty TNHH D có ký kết hợp đồng mua bán xi măng số 774/HĐMB. Theo đó, từ ngày 13/3/2017 đến ngày 23/9/2017 Công ty D có mua của Công ty V 224,25 tấn xi măng với số tiền là 330.528.068 đồng, cụ thể:
- 212,25 tấn x 1.475.000đồng = 313.068.750đồng;
- 7 tấn x 1.470.455 đồng = 10.293.182đồng;
- 3 tấn x 1.468.636 đồng = 4.405.909đồng;
- 2 tấn x 1.380.114 đồng = 2.760.227đồng.
(đơn giá trên đã trừ chiết khấu trong hóa đơn)
Đến ngày 15/12/2018 công ty D đã thanh toán cho công ty V số tiền 85.450.618 đồng và còn nợ lại số tiền 245.077.450 đồng. Mặc dù công ty V đã nhiều lần liên lạc với công ty D yêu cầu trả số tiền còn nợ như trên nhưng công ty D vẫn không trả.
Theo biên bản đối chiếu công nợ ngày 07/01/2021 công ty D xác nhận còn nợ công ty V số tiền 245.077.450đồng.
Vì vậy, nay công ty V yêu cầu Công ty D phải có nghĩa vụ trả số tiền 245.077.450đồng, không yêu cầu trả lãi.
* Bị đơn Công ty TNHH D:
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn đã được tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng không đến Tòa để khai báo, hòa giải. Tại phiên tòa hôm nay, công ty D do ông Nguyễn Thanh H – người đại diện theo pháp luật công ty cũng vắng mặt không có lý do.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của BLTTDS kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ được quy định tại các Điều 70 và Điều 72 BLTTDS. Về việc giải quyết vụ án, Kiểm sát viên đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 24, 50 và 297 Luật Thương mại năm 2005; xử chấp nhận yêu cầu của công ty V, buộc công ty D có nghĩa vụ trả cho công ty V số tiền 245.077.450đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn công ty H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án (điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự).
[2] Về nội dung tranh chấp:
[2.1] Ngày 01/3/2017, Công ty V và Công ty D có ký kết Hợp đồng mua bán xi măng số 774/HĐMB. Về nội dung và hình thức hợp đồng mua bán phù hợp với quy định của pháp luật nên giao dịch này hợp pháp. Theo biên bản đối chiếu công nợ ngày 07/01/2021, công ty D xác nhận còn nợ công ty V số tiền 245.077.450 đồng. Nguyên đơn nhiều lần yêu cầu thanh toán dứt điểm nhưng bị đơn không thanh toán. Như vậy, Công ty D đã không thực hiện đúng thỏa thuận mà hai bên đã ký tại Điều 3 Hợp đồng mua bán xi măng. Vì vậy, Công ty V đã căn cứ vào các điều khoản của hợp đồng mua bán xi măng yêu cầu công ty D trả số tiền 245.077.450 đồng là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật nên HĐXX chấp nhận.
[2.2] Công ty V không yêu cầu Công ty D trả lãi chậm trả đối với số tiền chưa thanh toán. Xét thấy, đây là sự tự nguyện của nguyên đơn, phù hợp với quy định pháp luật nên HĐXX chấp nhận.
[3] Về án phí KDTM sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Công ty D phải chịu 12.254.000đ. Công ty V không phải chịu án phí nên được hoàn lại tiền tạm ứng án phí đã nộp là 6.127.000 đồng.
[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của HĐXX.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm g khoản 1 Điều 40; điểm a, b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 351 và 357 Bộ luật Dân sự; Căn cứ các Điều 24, Điều 50 Luật Thương Mại;
Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần V.
Buộc Công ty TNHH D phải có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty cổ phần V số tiền 245.077.450 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của Công ty cổ phần V cho đến khi thi hành án xong, Công ty TNHH D còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn không yêu cầu Công ty TNHH D trả lãi chậm trả đối với số tiền chưa thanh toán.
3. Án phí KDTM sơ thẩm: Công ty TNHH D phải chịu 12.254.000đ đồng.
Hoàn lại cho Công ty cổ phần V số tiền 6.127.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002310 ngày 13/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự TP. Quy Nhơn.
4. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa số 76/2021/KDTM-ST
Số hiệu: | 76/2021/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 25/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về