TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 44/2023/KDTM-ST NGÀY 21/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Ngày 21 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 59/2023/TLST-KDTM ngày 23 tháng 5 năm 2023 về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2023/QĐXXST– KDTM ngày 03 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH G, địa chỉ: lô M, đường L, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp: Bà Thái Thị N, sinh năm 1991, địa chỉ: 1 B, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương và bà Trần Thị T, sinh năm 1995, địa chỉ: số H, đường N, khu phố B, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 24/4/2023), bà N có mặt, bà T vắng mặt.
- Bị đơn: Công ty Cổ phần S, địa chỉ: số C, khu phố B, đường Đ, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Văn Đ, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc, là người đại diện theo pháp luật, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn thống nhất trình bày:
Công ty TNHH G (gọi tắt là Công ty G) và Công ty cổ phần S (gọi tắt là Công ty S) có quan hệ mua bán hàng hóa là gỗ các loại... , việc mua bán được hai bên thực hiện theo Hợp đồng số 01/2022-LC&DT ngày 07/01/2022.
Ngày 31/3/2022, Công ty G đã giao hàng cho Công ty S với số lượng là 21,238 m3 gỗ thông xẻ (22mm/col) và xuất hóa đơn số 0000731 cho Công ty S với tổng giá trị là 197.258.544 đồng. Công ty S sẽ thanh toán trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hàng. Nếu đến hạn mà chưa thanh toán thì phải chịu phạt lãi suất 0,01%/ngày. Ngày 28/7/2022, Công ty S đã thanh toán cho Công ty G số tiền 50.000.000 đồng, còn lại 147.258.544 đồng thì chưa thanh toán.
Do Công ty S vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Công ty G khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty S phải thanh toán cho Công ty G số tiền nợ gốc 147.258.544 đồng và tiền lãi chậm trả tính đến ngày xét xử là 7.480.000 đồng tương ứng với lãi suất 3,65%/năm.
Bị đơn Công ty cổ phần S vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và không có văn bản trình bày ý kiến.
Đại diện Viện Kiểm sát phát biểu quan điểm tại phiên toà sơ thẩm như sau: Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án:
Xét thấy việc nguyên đơn Công ty G khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn Công ty S phải trả số tiền còn nợ, xuất phát từ việc mua bán hàng hóa là gỗ thông, đây là vụ án kinh doanh thương mại: “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa”. Bị đơn có trụ sở tại thành phố T, tỉnh Bình Dương nên theo khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự:
Bị đơn là Công ty S, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ 02 (hai) lần tham gia phiên tòa nhưng đều vắng mặt, không rõ lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[3] Nguyên đơn Công ty G yêu cầu bị đơn thanh toán cho nguyên đơn số tiền nợ gốc 147.258.544 đồng và tiền lãi chậm trả tính đến ngày xét xử là 7.480.000 đồng tương ứng với lãi suất 3,65%/năm (tương ứng với 0,01%/ngày theo hợp đồng đã ký kết).
[4] Xét yêu cầu trả tiền nợ gốc của nguyên đơn: Công ty G đưa ra các Phiếu xuất hàng ngày 30/3/2022, Hóa đơn giá trị gia tăng số 0000731 ngày 31/3/2022, Giấy báo có ngày 28/7/2022 của Ngân hàng TMCP N1 của để chứng minh việc mua bán hàng hóa. Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bị đơn Công ty S đều không có mặt, như vậy Công ty S đã từ bỏ quyền chứng minh của bị đơn đối với các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp cho Tòa án. Tòa án triệu tập hợp lệ Công ty S tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng Công ty S vẫn không có mặt là đã từ bỏ quyền phản bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do đó, có căn cứ xác định Công ty S không có ý kiến phản đối đối với chứng cứ nguyên đơn cung cấp và đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[5] Xét, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp là Phiếu giao hàng, hóa đơn giá trị gia tăng, Giấy báo có, Công ty G xác định đã cung cấp hàng hóa cho Công ty S với tổng giá trị là 197.258.544 đồng, là phù hợp với giá trị hàng hóa, hóa đơn Công ty S đã nhận. Căn cứ “Giấy báo có” của Ngân hàng TMCP N1 (V) thì nội dung diễn giải thể hiện việc Công ty S chuyển tiền cho Công ty G “ứng tiền mua gỗ thông Hóa đơn số 731 – Công ty TNHH G”. Như vậy, có căn cứ xác định, bị đơn Công ty S còn nợ số tiền 147.258.544 đồng.
[6] Căn cứ khoản 1 Điều 50 Luật Thương mại thì bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng theo thỏa thuận. Công ty S đã nhận hàng nhưng không thanh toán tiền hàng là vi phạm thỏa thuận do đó cần buộc Công ty S thanh toán cho Công ty G số tiền còn nợ là số tiền 147.258.544 đồng.
[7] Về tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ: Công ty S đã không thanh toán đầy đủ tiền hàng cho Công ty G nên phải trả tiền lãi trên số tiền chậm trả cho Công ty G. Tại phiên tòa, Công ty G yêu cầu Công ty S phải thanh toán tiền lãi trên khoản nợ còn lại với mức lãi suất là 3,65%/năm = 7.480.000 đồng. Lãi suất này phù hợp với thỏa thuận được các bên ký kết tại Hợp đồng số 01/2022-LC&DT ngày 07/01/2022 là phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[8] Từ những phân tích trên có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty G.
[9] Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị chấp toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp.
[10] Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí đối với phần yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, khoản 2 Điều 92, Điều 147, Điều 227, Điều 235, Điều 244, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 280, Điều 289, Điều 370 của Bộ luật Dân sự năm 2015 - Điều 50, 55, 301, 306 Luật Thương mại;
- Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH G về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa với bị đơn Công ty cổ phần S.
Buộc Công ty cổ phần S có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty TNHH G số tiền 154.738.544 đồng, trong đó nợ gốc 147.258.544 đồng, tiền lãi chậm trả là 7.480.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất 3,65%/năm theo thỏa thuận tại Hợp đồng số 01/2022-LC&DT ngày 07/01/2022 tương ứng với thời gian chậm trả.
2. Về án phí:
Buộc Công ty cổ phần S phải chịu 7.737.000 đồng tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Trả lại cho Công ty TNHH G số tiền 4.233.700 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0007681 ngày 18-5-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân Uyên.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 1, Điều 2 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014./.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 44/2023/KDTM-ST
Số hiệu: | 44/2023/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 21/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về