Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 4263/KDTM-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ H CHÍ MINH

BẢN ÁN 4263/KDTM-ST NGÀY 09/11/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 09 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 187/2022/TLST-KDTM ngày 14 tháng 10 năm 2022 về Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 6466/2023/QĐXXST-DS ngày 03 tháng 10 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 6815/2023/QĐXXST-DS ngày 20/10/2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty Cổ Phần X.

Địa chỉ trụ sở: Lô KT1, KCN Q, xã N, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hà Xuân N, sinh năm 1980 - Bị đơn: Công ty Cổ Phần C (tên cũ Công ty CP H).

Địa chỉ: Số F đường A, khu nhà ở V, Khu phố E, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Choo Sung J, sinh năm 1969 Địa chỉ: A K, phường M, quận N, Thành phố Hà Nội

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai, Nguyên đơn - Công ty Cổ Phần X có ông Hà Xuân N là đại diện ủy quyền trình bày:

Công ty CP H (nay là Công ty Cổ Phần C (bên A) và Công ty Cổ phần X (bên B) ký Hợp đồng mua bán bê tông thương phẩm số: 2208/2019/HĐKT ngày 22/08/2019. Theo sự thỏa thuận trong hợp đồng đã ký kết giữa hai bên: Bên bán nhận cung cấp cho bên mua hỗn hợp bê tông thương phẩm theo mác, chỉ tiêu kỹ thuật và các dịch vụ khác cho công trình: Nhà máy sản xuất văn phòng phẩm của Công ty H1 tại Việt Nam Lô CN 06-4 và CN 13/2 KCN Y ( Khu mở rộng).

Về Thời hạn thanh toán: Vào ngày 25 hàng tháng hai bên tiến hành đối chiếu khối lượng bê tông mà bên B cấp hàng cho bên A, Bên A thanh toán 80% giá trị của từng đợt đối chiếu cho bên B trong vòng 3 ngày kể từ ngày hai bên tiến hành đối chiếu. Giá trị còn lại sẽ được thanh toán sau khi bên A nhận được kết quả 28R hợp lệ từ bên B.

Quá trình thực hiện hợp đồng: Bên B đã cung cấp bê tông cho bên A đúng số lượng, chất lượng, đúng thỏa thuận hai bên ký kết trong hợp đồng. Quá trình cung cấp bê tông thương phẩm, hai bên đã cùng ký bảng đối chiếu công nợ bê tông thương phẩm như sau:

Ngày 31/12/2021 Hai bên ký biên bản đối chiếu công nợ bên Công ty Cổ Phần C còn nợ là: 410.093.000 đồng (Bằng chữ: Bốn trăm mười triệu, không trăm chín ba nghìn đồng) Sau khi Công ty Cổ phần X hoàn thành xong thủ tục theo hợp đồng và đề nghị Công ty Cổ Phần C thanh toán nhưng đến hiện tại vẫn không thanh toán tiền bên tông theo thỏa thuận. Như vậy Công ty Cổ Phần C đã vi phạm vào khoản 5.1 và Điều 5 của hợp đồng mua bán Bê tông thương phẩm. Cụ thể Công ty Cổ Phần C đã vi phạm phương thức thanh toán, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty Cổ phần X.

Vì vậy căn cứ theo khoản 7.1 và 7.2 điều 7 Công ty chúng tôi sẽ tính lãi phạt và lãi chậm trả bằng lãi suất ngân hàng của Công ty Cổ phần X từ khi Công ty Cổ Phần C chậm thanh toán vào ngày 01/04/2020 cho đến khi thực tế trả hết công nợ với lãi suất theo lãi suất Ngân hàng M 6%/năm.

Nay, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện tại đơn khởi kiện và bản tự khai, cụ thể: Yêu cầu Công ty Cổ Phần C phải thanh toán số tiền còn nợ là: 502.363.970 đồng (Bằng chữ: Năm trăm linh hai triệu, ba trăm sáu mươi ba nghìn, chín trăm bảy mươi). Trong đó khoản tiền gốc là: 410.093.000 đồng và tiền lãi chậm trả là: 92.270.925 đồng.

Bị đơn - Đại diện pháp lý Công ty Cổ Phần C vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bị đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thủ Đức tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về xác định thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ của những người tham gia tố tụng; thực hiện việc gửi các văn bản tố tụng, hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng quy định.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

Tuy nhiên, cần lưu ý rút kinh nghiệm vì vi phạm thời hạn đưa vụ án ra xét xử.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

Nguyên đơn - Công ty Cổ phần X tranh chấp yêu cầu Công ty Cổ Phần C (thanh toán số tiền hàng hóa theo đồng số 68/07/2020/HĐKT/VN-DP về việc cung cấp bê tông thương phẩm tại công trình. Đây là tranh chấp giữa phát sinh giữa các pháp nhân và nhằm mục đích sinh lợi nên là tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự.

Do tại thời điểm Tòa án thụ lý, bị đơn có trụ sở tại Thành phố T nên căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 36 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Đức.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Cổ phần của Công ty Cổ Phần C, Mã số doanh nghiệp 0314518272 đăng ký lần đầu: ngày 14/7/2017 với tên: Công ty CP H; Đăng ký thay đổi lần thứ 6, ngày 25/4/2022 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố H thể hiện: Công ty Cổ Phần C có trụ sở chính tại số F đường A, khu nhà ở V, Khu phố E, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo công văn xác minh số 331/UBND ngày 23/3/2023 của Ủy ban nhân dân phường H, về việc xác minh tình trạng hoạt động doanh nghiệp, ghi nhận Cổ phần của Công ty Cổ Phần C không treo biển hiệu, không còn hoạt động tại địa chỉ tại số F đường A, khu nhà ở V, Khu phố E, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Về thông tin người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ Phần C là ông Choo Sung J, sinh năm 1969; Địa chỉ thường trú: 221-42 M, S, B, Hàn Quốc; Địa chỉ liên lạc: A K, phường M, quận N, Thành phố Hà Nội (theo địa chỉ thường trú trên Giấy chứng nhận đăng ký Doanh nghiệp).

Do việc niêm yết không đảm bảo ông Choo Sung J - là người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ Phần C nhận được thông tin về văn bản nên Tòa án Thành phố T đã thực hiện thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Tòa án đã đăng thông báo trong ba số liên tiếp trên P, trang Thông tin điện tử của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và phát thanh trong ba ngày liên tiếp trên Đ với nội dung: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Đức thông báo cho Người đại diện theo pháp luật của Cổ phần của Công ty Cổ Phần C E&C ông Choo Sung J, sinh năm 1969; Địa chỉ thường trú: 221-42 M, S, B, Hàn Quốc; Địa chỉ liên lạc: A K, phường M, quận N, Thành phố Hà Nội biết như sau:

Ngày 14/10/2022, TAND TP . đã thụ lý vụ án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 187/2022/KTST về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo đơn khởi kiện của Công ty Cổ Phần X, yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc Công ty Cổ Phần C (tên cũ Công ty CP H) phải thanh toán số tiền còn nợ là: 467.506.020 đồng (Bốn trăm sáu mươi bảy triệu, năm trăm linh sáu nghìn, không trăm hai mươi), trong đó tiền gốc là: 410.093.000 đồng và tiền lãi chậm trả là: 57.413.020 đồng.

- Yêu cầu người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ Phần C có mặt tại Phòng số 5 (Lầu A), Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, địa chỉ: A Đ, phường T, TP . vào lúc 08 giờ 30 phút ngày 21/8/2023 để cung cấp bản tự khai.

- Yêu cầu người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ Phần C có mặt tại Phòng số 5 (Lầu A), Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, địa chỉ: A Đ, phường T, TP . để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải lần 1 vào lúc 8 giờ 30 phút ngày 11/9/2023, lần 2 vào lúc 8 giờ 30 phút ngày 02/10/2023.

- Yêu cầu người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ Phần C có mặt tại phòng xử án, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, địa chỉ: A Đ, phường T, TP . để tham gia phiên tòa lần 1 vào lúc 8 giờ 30 phút ngày 20/10/2023, nếu đương sự vắng mặt Tòa án sẽ tiến hành xét xử lần 2 vào lúc 8 giờ 30 phút ngày 9/11/2023.

Đề nghị người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ Phần Chuvi E&C liên hệ Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức để giải quyết vụ việc, nếu người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ phần C vắng mặt, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức sẽ giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.” Trong tất cả các lần Tòa triệu tập, người đại diện hợp pháp của Công ty C đều vắng mặt không có lý do. Người đại diện theo ủy quyền của Công ty Cổ Phần X có đơn xin vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án được tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[3] Về nội dung tranh chấp [3.1] Công ty Cổ Phần X khởi kiện yêu cầu Công ty Cổ Phần C phải thanh toán số tiền còn nợ là: 502.363.970 đồng (Bằng chữ: Năm trăm linh hai triệu, ba trăm sáu mươi ba nghìn, chín trăm bảy mươi). Trong đó khoản tiền gốc là: 410.093.000 đồng và tiền lãi chậm trả là: 92.270.925 đồng. Việc thanh toán được thực hiện một lần ngay khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy:

Công ty Cổ Phần X hoạt động theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty Cổ phần, Mã số doanh nghiệp: 2300238254. Đăng ký lần đầu ngày 15/10/2003, đăng ký thay đổi lần thứ 13 ngày 26/7/2023 do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố H cấp.

Cổ phần của Công ty Cổ Phần C, Mã số doanh nghiệp 0314518272 đăng ký lần đầu: ngày 14/7/2017 với tên: Công ty CP H. Đăng ký thay đổi lần thứ 6, ngày 25/4/2022 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố H cấp.

Ngày 22/8/2019, giữa Công ty Cổ Phần X và Công ty CP H (nay là Công ty Cổ Phần C ký Hợp đồng kinh tế số: 2208/2019/HĐKT ngày 22/08/2019 về việc cung cấp bê tông thương phẩm và dịch vụ bơm Bê tông thuộc công trình: Nhà máy sản xuất văn phòng phẩm của Công ty H1 tại Việt Nam. Như vậy, hợp đồng được ký là phù hợp với chức năng ngành nghề đăng ký kinh doanh của cả hai bên, nội dung thỏa thuận không trái với quy định của pháp luật nên là căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.

Căn cứ bảng đối chiếu công nợ ký ngày 31/12/2021, Hai bên ký biên bản đối chiếu công nợ xác định Công ty Cổ Phần C còn nợ là: 410.093.000 đồng (Bằng chữ: Bốn trăm mười triệu, không trăm chín ba nghìn đồng) Để đánh giá chứng cứ được khách quan và đầy đủ, ngày 02/10/2023 Tòa đã lập biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và Biên bản hòa giải cho các bên đương sự, tuy nhiên Công ty Cổ Phần C không có văn bản phản đối nên căn cứ khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự thì yêu cầu khởi kiện không thuộc trường hợp phải chứng minh. Công ty Cổ Phần X phải chịu trách nhiệm về yêu cầu khởi kiện và những tài liệu, chứng cứ mà Công ty Cổ Phần X đưa ra. Do đó, yêu cầu Công ty Cổ Phần C phải trả cho Công ty X số tiền nợ gốc là: 410.093.000 đồng (Bằng chữ: Bốn trăm mười triệu, không trăm chín ba nghìn đồng) có cơ sở chấp nhận.

[3.2] Về lãi suất:

Công ty X tính lãi phạt và lãi chậm trả bằng lãi suất ngân hàng từ khi Công ty Cổ Phần C chậm thanh toán vào ngày 01/04/2020 cho đến khi thực tế trả hết công nợ với lãi suất theo lãi suất Ngân hàng M 6%/năm. Hội đồng xét xử nhận thấy:

Căn cứ Điều 306 Luật Thương mại quy định: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Căn cứ theo khoản 7.1 và 7.2 điều 7 của Hợp đồng, Công ty X có quyền yêu cầu tính lãi chậm thanh toán với lãi suất theo lãi suất cho vay ngắn hạn tại Ngân hàng M. Do đó, Công ty X tính lãi phạt và lãi chậm trả từ ngày 01/04/2020 cho đến khi Công ty Cổ Phần C thực tế trả hết công nợ với lãi suất theo lãi suất Ngân hàng M 6%/năm là phù hợp nên chấp nhận.

Như vậy, Công ty Cổ Phần C phải có nghĩa vụ phải thanh toán Công ty X số tiền nợ gốc chưa thanh toán là 410.093.000 đồng (Bằng chữ: Bốn trăm mười triệu, không trăm chín ba nghìn đồng) và tiền lãi suất chậm thanh toán, tạm tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 09/11/2023) là 94.321.390 đồng. Tổng cộng là 504.414.436 đồng.

Ghi nhận sự tự nguyện của Công ty X chỉ yêu cầu Công ty Cổ Phần C E&C thanh toán tiền lãi chậm trả cho đến thời điểm xét xử.

[4] Về án phí: Nguyên đơn được chấp nhận yêu cầu nên bị đơn phải chịu án phí.

Ghi nhận ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về thủ tục tố tụng: Xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, thủ tục thông báo các văn bản tố tụng giải quyết vụ án theo quy định pháp luật và về việc rút kinh nghiệm do vụ án vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử được quy định tại khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết nội dung vụ án: Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức là phù hợp quy định của pháp luật nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điềm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92, khoản 1 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 50, Điều 85, Điều 306 Luật Thương mại;

- Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty X - K:

1.1 .Buộc Công ty Cổ Phần C phải có nghĩa vụ phải thanh toán Công ty Cổ Phần X số tiền nợ gốc chưa thanh toán là 410.093.000 đồng (Bằng chữ: Bốn trăm mười triệu, không trăm chín ba nghìn đồng) và tiền lãi suất chậm thanh toán, tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 09/11/2023) là 94.321.390 đồng. Tổng cộng là 504.414.436 đồng. Thanh toán một lần ngay khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Ghi nhận sự tự nguyện của Công ty Cổ Phần X chỉ yêu cầu Công ty Cổ Phần C E&C thanh toán tiền lãi chậm trả cho đến thời điểm xét xử.

Kể từ ngày Công ty Cổ Phần X có đơn yêu cầu thi hành án nếu Công ty Cổ Phần C không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán nêu trên thì hàng tháng Công ty Cổ Phần C còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.

Các bên thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

2. Về án phí:

Nguyên đơn được chấp nhận yêu cầu nên bị đơn phải chịu án phí. Công ty Cổ Phần C phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 24.176.577 đồng (Năm triệu một trăm ba mươi sáu nghìn hai trăm hai lăm đồng). Công ty Cổ Phần C chưa đóng án phí.

Công ty X không phải chịu án phí. Hoàn trả cho Công ty X số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 11.350.120 đồng (Ba triệu đồng) theo biên lai thu số AA/2022/ 0006025 ngày 10/10/2022 của Chi cục thi hành án dân sự Thành phố Thủ Đức.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Công ty X, Công ty Cổ Phần C, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thủ Đức có quyền kháng nghị trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 4263/KDTM-ST

Số hiệu:4263/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 09/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về