TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 40/2022/KDTM-ST NGÀY 17/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Ngày 17 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 11/2021/KTST ngày 02 tháng 02 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 125/2022/QĐXXST-KDTM ngày 16 tháng 03 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 217/2022/QĐST-KDTM ngày 12 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH Chinh LLA; Trụ sở: Lô A2 và A3- 1 đường dọc 2, KCN An Phú, xã TT, huyện BL, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Văn Thị Diễm Th, sinh năm 1976 (Theo giấy ủy quyền ngày 11/5/2022) (có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Bao bì giấy GP; Trụ sở: 91/39 Trần Tấn, phường TSN, quận TP, TP.HCM.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Lê Thị Hoàng G – Giám đốc (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện ngày 25/12/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 09/11/2019, công ty TNHH Chinh LLA (gọi tắt là Công ty LLA) ký hợp đồng ngyên tắc số NK-CL/2019 (về việc mua bán sản phẩm bao bì carton) với công ty TNHH Sản Xuất Thương Mại Bao Bì Giấy GP (gọi tắt là Công ty GP).
Phương thức mua bán: Công ty GP gửi đơn đặt hàng đến Công ty LLA. Căn cứ vào đơn đặt hàng, Công ty Long An giao hàng kèm theo phiếu xuất kho và hóa đơn giá trị gia tăng đến kho của Công ty GP. Công ty GP cử nhân viên ký nhận vào phiếu xuất kho và nhận bản chính hóa đơn giá trị gia tăng.
Phương thức thanh toán: Sau 30 ngày kể từ ngày giao hàng và xuất hóa đơn giá trị gia tăng, công ty LLA sẽ gửi bản đối chiếu công nợ tháng trước cho công ty GP. Công ty GP xác nhận công nợ vào ngày cuối cùng hàng tháng và tiến hành thanh toán theo công nợ đã chốt. Công ty GP thanh toán tiền mua hàng cho Công ty LLA bằng hình thức chuyển khoản hoặc tiền mặt.
Cụ thể các đợt gia hàng:
+ Từ ngày ngày 17 tháng 02 năm 2020 đến ngày 19 tháng 04 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, tổng giá trị số hàng là 996.404.217 (Chín trăm chín mươi sáu triệu bốn trăm linh bốn nghìn hai trăm mười bảy đồng) + Ngày 17 tháng 02 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty TNHH Sản Xuât Thương Mại Bao Bì Giấy GP, giá trị số hàng là 59.360.318đ (Năm mươi chín triệu ba trăm sáu mươi nghìn ba trăm mười tám đồng) + Ngày 18 tháng 02 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty TNHH Sản Xuât Thương Mại Bao Bì Giấy GP, giá trị số hàng là 20.987.800đ (Hai mươi triệu chín trăm tám mươi bảy nghìn tám trăm đồng) + Ngày 22 tháng 02 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 19.132.300đ (Mười chín triệu một trăm ba mươi hai nghìn ba trăm đồng) + Ngày 22 tháng 02 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty TNHH Sản Xuât Thương Mại Bao Bì Giấy GP, giá trị số hàng là 48.161.520đ (Bốn mươi tám triệu một trăm sáu mươi mốt nghìn năm trăm hai mươi đồng) + Ngày 24 tháng 02 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 7.258.086đ (Bảy triệu hai trăm năm mươi tám nghìn không trăm tám mươi sáu đồng) + Ngày 25 tháng 02 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 134.851.725đ (Một trăm ba mươi bốn triệu tám trăm năm mươi mốt nghìn bảy trăm hai mươi lăm đồng) + Ngày 25 tháng 02 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 35.549.589đ (Ba mươi lăm triệu năm trăm bốn mươi chín nghìn năm trăm tám mươi chín đồng) + Ngày 27 tháng 02 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 40.134.600đ (Bốn mươi triệu một trăm ba mươi bốn nghìn sáu trăm đồng) + Ngày 28 tháng 02 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 17.182.891đ (Mười bảy triệu một trăm tám mươi hai nghìn tám trăm chín mươi mốt đồng) + Ngày 15 tháng 03 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 14.247.783đ (Mười bốn triệu hai trăm bốn mươi bảy triệu bảy trăm tám mươi ba đồng) + Ngày 16 tháng 03 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 5.819.517 đ (Năm triệu tám trăm mười chín nghìn năm trăm mười bảy đồng) + Ngày 19 tháng 03 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 49.819.000đ (Bốn mươi chín triệu tám trăm mười chín nghìn đồng) + Ngày 20 tháng 03 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 51.218.262đ (Năm mươi mốt triệu hai trăm mười tám nghìn hai trăm sáu mươi hai đồng) + Ngày 21 tháng 03 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 5.538.575đ (Năm triệu năm trăm ba mươi tám nghìn năm trăm bảy mươi lăm đồng) + Ngày 21 tháng 03 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 59.892.910đ (Năm mươi chín triệu tám trăm chín mươi hai nghìn chín trăm mười đồng) + Ngày 21 tháng 03 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 95.158.800đ (Chín mươi lăm triệu một trăm năm mươi tám nghìn tám trăm đồng) + Ngày 23 tháng 03 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 14.689.264đ (Mười bốn triệu sáu trăm tám mươi chín nghìn hai trăm sáu mươi bốn đồng) + Ngày 24 tháng 03 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 20.666.800đ (Hai mươi triệu sáu trăm sáu mươi sáu nghìn tám trăm đồng) + Ngày 25 tháng 03 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 14.689.264đ (Mười ba triệu sáu trăm tám mươi nghìn một trăm năm mươi đồng) + Ngày 27 tháng 03 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 61.497.425đ (Sáu mươi mốt triệu bốn trăm chín mươi bảy nghìn bốn trăm hai mươi lăm đồng) + Ngày 27 tháng 03 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 7.255.243đ (Bảy triệu hai trăm năm mươi lăm nghìn hai trăm bốn mươi ba đồng) + Ngày 27 tháng 03 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 21.337.800đ (Hai mươi mốt triệu ba trăm ba mươi bảy nghìn tám trăm đồng) + Ngày 09 tháng 04 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 22.827.200đ (Hai mươi hai triệu tám trăm hai mươi bảy nghìn hai trăm đồng) + Ngày 14 tháng 04 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 75.733.130đ (Bảy mươi lăm triệu bảy trăm ba mươi ba nghìn một trăm ba mươi đồng) + Ngày 17 tháng 04 năm 2020 Công ty LLA đã giao hàng cho Công ty GP, giá trị số hàng là 34.015.498đ (Ba mươi bốn triệu không trăm mười lăm nghìn bốn trăm chín mươi tám đồng) Tính đến ngày 19/08/2020, tổng số tiền hàng mà Công ty GP đã thanh toán cho Công ty LLA là 507.529.000đ (Năm trăm lẻ bảy triệu năm trăm hai mươi chín nghìn đồng). Số tiền đã thanh toán thể hiện bằng các chứng từ giao dịch tài khoản ngân hàng của nguyên đơn.
Số nợ chưa thanh toán là 488.875.217đ (Bốn trăm tám mươi tám triệu tám trăm bảy mươi lăm nghìn hai trăm mười bảy đồng).
Công ty LLA cũng đã nhiều lần đã cử nhân viên liên hệ Công ty GP yêu cầu trả số nợ 488.875.217đ (Bốn trăm tám mươi tám triệu tám trăm bảy mươi lăm nghìn hai trăm mười bảy đồng) nhưng Công ty GP vẫn không trả nợ cho chúng tôi.
Nay công ty LLA yêu cầu Công ty GP thanh toán số tiền hàng còn thiếu là 488.875.217đ (Bốn trăm tám mươi tám triệu tám trăm bảy mươi lăm nghìn hai trăm mười bảy đồng) và lãi suất chậm thanh toán tạm tính từ ngày 19/8/2020 đến ngày 17/5/2022 là 488.875.217đ *(8%/365)*636 = 68.147.865 đồng cho Công ty LLA.
Yêu cầu thanh toán số tiền trên một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Công ty TNHH Sản xuất thương mại bao bì giấy GP đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Do đó Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo luật định.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận TP phát biểu quan điểm:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Đương sự, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều tuân theo pháp luật tố tụng qui định tại Điều 30, Điều 35, Điều 39, Điều 48, Điều 68, Điều 69, khoản 2 Điều 97, Điều 171, Điều 173, Điều 203 của Bộ luật Tố tụng sân sự.
- Về nội dung vụ án: Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa thể hiện ngày 09/11/2019, công ty LLA ký hợp đồng nguyên tắc số NK-CL/2019 về việc mua bán sản phẩm bao bì carton với công ty GP. Hai bên đã tiến hành đặt và gia hàng và gia hàng như thỏa thuận. Sau khi đối chiếu các công nợ thì thể hiện công ty GP mua hàng với tổng số tiền là 996.404.217 đồng. Công ty GP đã thanh toán số tiền 507.529.000đ thể hiện qua chứng từ sao kê của nguyên đơn và còn nợ 488.875.217đ. Nay công ty GP đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Công ty LLA yêu cầu thanh toán số tiền còn thiếu và lãi suất chậm thanh toán là có cơ sở chấp nhận. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Về án phí tính theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
- Xét đơn khởi kiện ngày 25/12/2020 của nguyên đơn, căn cứ vào hợp đồng nguyên tắc số NK-CL/2019 ngày 09/11/2019 thì giữa nguyên đơn và bị đơn phát sinh tranh chấp, Hội đồng xét xử xác định đây là quan hệ tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa. Do bị đơn có trụ sở đăng ký kinh doanh tại quận TP nên Toà án nhân dân quận TP thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục kinh doanh thương mại là phù hợp với qui định tại khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về thủ tục xét xử vắng mặt đương sự:
- Đại diện nguyên đơn – bà Văn Thị Diễm Th có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà Th.
- Người đại diện theo pháp luật của công ty GP nhân danh công ty ký hợp đồng nguyên tắc về việc mua bán hàng hóa với công ty LLA, nên căn cứ Điều 79 Bộ luật dân sự 2015, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng nguyên tắc gắn kết với địa chỉ của pháp nhân theo địa chỉ của pháp nhân tại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho công ty GP. Vì vậy không cần tống đạt các văn bản tố tụng tại nơi cư trú của cá nhân là người đại diện theo pháp luật của công ty GP, bởi lẽ theo khoản 3 Điều 40 Bộ luật dân sự 2015 quy định: Cá nhân là một bên trong quan hệ dân sự, phải thông báo cho bên kia biết về nơi cư trú của mình trong trường hợp nơi cư trú gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ. Do đó, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý, giấy triệu tập, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa có ghi rõ ngày đưa vụ án ra xét xử lần hai đến địa chỉ trụ sở công ty GP để công ty thực hiện quyền tranh tụng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nhưng người đại diện hợp pháp của công ty GP vắng mặt lần thứ hai không có lý do, nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn công ty GP.
[2] Về yêu cầu của các đương sự:
- Xét, công ty LLA yêu cầu thanh toán số tiền còn thiếu là 488.875.217 đồng:
Căn cứ lời khai của đại diện nguyên đơn, căn cứ vào hợp đồng nguyên tắc được ký ký kết giữa hai bên, căn cứ vào các biên bản đối chiếu công nợ và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ xác định giữa công ty GP có việc mua bán sản phẩm bao bì carton với công ty LLA. Từ số lượng giao nhận sản phẩm giấy carton thì hai bên đã đối chiếu công nợ xác nhận công ty GP còn nợ công ty LLA số tiền là 996.404.217. Tuy nhiên qua các chứng từ sao kê từ tài khoản ngân hàng của nguyên đơn thể hiện bị đơn mới thanh toán cho nguyên đơn số tiền 507.529.000 đồng, hiện nay bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền mua sản phẩm bao bì carton là 488.875.217 đồng. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền, nên nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền trên là có cơ sở để chấp nhận theo Điều 50 của Luật Thương mại 2005.
- Xét, công ty LLA yêu cầu thanh toán tiền lãi chậm trả của số tiền 488.875.217 đồng tạm tính tính từ ngày 19/8/2020 đến ngày 17/5/2022 với lãi suất 8%/năm với số tiền 68.147.865 đồng:
Hội đồng xét xử xét thấy, công ty GP phải có nghĩa vụ trả lại số tiền hàng còn thiếu nhưng đến nay công ty GP vẫn không thanh toán nên ảnh hưởng tới quyền lợi của nguyên đơn. Căn cứ vào trang thông tin điện tử của Ngân hàng Eximbank, Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thì lãi suất quá hạn trung bình tại thời điểm xét xử là 150% lãi suất cho vay trong hạn (tương đương 11.5%/năm). Tuy nhiên công ty LLA chỉ yêu cầu mức lãi suất chậm thanh toán là 8%/năm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền là phù hợp với quy định của pháp luật và có lợi cho bị đơn. Do đó yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải trả tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền là phù hợp với Điều 357 Bộ luật dân sự 2015 nên có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận.
Như vậy tổng số tiền bị đơn có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn là 557.023.082 đồng, trong đó nợ gốc là 488.875.217 đồng, tiền lãi chậm thanh toán là 68.147.865 đồng.
- Xét, trong quá trình giải quyết vụ án, công ty GP đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn không đến Tòa để trình bày ý kiến, yêu cầu do đó không có cơ sở xem xét.
- Về thời hạn thanh toán:
Xét, Công ty LLA yêu cầu công ty GP thanh toán một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy công ty GP vi phạm thời hạn thanh toán đã lâu là gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty LLA. Căn cứ Điều 55 Luật Thương mại yêu cầu của công ty LLA là có cơ sở để chấp nhận.
[3]Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Do yêu cầu của Công ty LLA được chấp nhận nên Công ty GP phải chịu án phí là 26.280.923 đồng.
Hoàn lại toàn bộ tiền tạm ứng án phí là 3.000.000 đồng cho Công ty LLA.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 24, Điều 50, Điều 55 Luật Thương mại 2005;
- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
- Khoản 1 Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn các quy định về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn công ty TNHH Chinh LLA.
Buộc công ty TNHH Sản xuất Thương mại Bao bì giấy GP có trách nhiệm thanh toán cho công ty TNHH Chinh LLA tổng số tiền là 557.023.082 (năm trăm năm mươi bảy triệu, không trăm hai mươi ba ngàn, không trăm tám mươi hai) đồng, trong đó nợ gốc là 488.875.217 (bốn trăm tám mươi tám triệu, tám trăm bảy mươi lăm ngàn, hai trăm mười bảy) đồng, tiền lãi chậm thanh toán là: 68.147.865 (sáu mươi tám triệu, một trăm bốn mươi bảy ngàn, tám trăm sáu mươi lăm) đồng.
Thời hạn thanh toán: Một lần, ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày công ty TNHH Chinh LLA có đơn yêu cầu thi hành án mà công ty TNHH Sản xuất Thương mại Bao bì giấy GP không thi hành thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.
2. Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Bao bì giấy GP phải chịu án phí sơ thẩm là 26.280.923 (hai mươi sáu triệu, hai trăm tám mươi ngàn, chín trăm hai mươi ba) đồng.
Hoàn lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí là 3.000.000 (ba triệu) đồng cho Công ty TNHH Chinh LLA theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0071703 ngày 02/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận TP.
Thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
3. Quyền kháng cáo:
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 40/2022/KDTM-ST
Số hiệu: | 40/2022/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 17/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về