TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 33/2022/DS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Ngày 27 tháng 9 năm 2022 tại Toà án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 86/2021/TLST-KDTM, ngày 18 tháng 11 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2022/QĐXX-ST ngày 17/8/2022 và quyết định hoãn phiên toà số 202/2022/QĐXX-ST ngày 07/9/2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty H;
Địa chỉ: 58/1Q, Quốc lộ 1, ấp T 1, xã B, huyện H, Thành phố H; Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Quốc C – Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn C (Theo văn bản ủy quyền ngày 11/5/2021).
2. Bị đơn: Công ty L;
Địa chỉ: Số 12A, tổ 7C, khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Đ;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đào Việt H – Giám đốc.
Địa chỉ: Số 27/7A, khu phố 1, phường T, thành phố B, tỉnh Đ;
(Ông T có đơn xin xét xử vắng mặt; Đại diện Công ty L vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn Công ty H do người đại diện theo ủy quyền ông Trần Văn C trình bày:
Công ty L và Công ty H có ký hợp đồng mua bán giàn giáo xây dựng số 08-12/16 HĐKT-HC-LHT ngày 08/12/2016 với giá trị 2.394.574.908 đồng và hợp đồng số 33-2017 HĐKT-HC-LHT ngày 12/7/2017 với giá trị 968.517.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp Công ty L đã mua giàn giáo và chưa thanh toán cho Công ty H là 1.845.261.544 đồng căn cứ theo bảng xác nhận công nợ hai bên ký xác nhận ngày 30/6/2018. Công ty H đã rất nhiều lần gửi thông báo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho phía Công ty L nhưng không có thiện chí.
Nay Công ty H khởi kiện yêu cầu Công ty L thanh toán cho Công ty H toàn bộ số nợ là 1.845.261.544 đồng (Một tỷ tám trăm bốn mươi lăm triệu hai trăm sáu mươi mốt ngàn năm trăm bốn mươi bốn đồng), không yêu cầu tính lãi.
Bị đơn Công ty L đã được tống đạt (niêm yết) hợp lệ các văn bản tố tụng: Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Thông báo về việc cung cấp tài liệu chứng cứ, Thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng không đến Tòa án làm việc nên không có lời trình bày.
Tại phiên tòa hôm nay, ngoài các chứng cứ các đương sự đã cung cấp từ khi thụ lý, nguyên đơn, bị đơn không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì khác.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đ phát biểu ý kiến:
+ Về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: đã thực hiện đúng theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; xác định quan hệ pháp luật, tư cách của đương sự và thu thập chứng cứ đúng quy định của pháp luật.
+ Về việc giải quyết vụ án: Từ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ, đối chiếu các quy định của pháp luật; có đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bị đơn chịu án phí sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
- Về tư cách tố tụng và quan hệ tranh chấp:
Công ty H khởi kiện Công ty L trả số tiền còn nợ theo hợp đồng mua bán hàng hoá. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định Công ty H là nguyên đơn, Công ty L là bị đơn. Căn cứ Khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng Dân sự và Khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại 2005 (sửa đổi năm 2017,2019), quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”.
- Về thẩm quyền giải quyết: Công ty L có địa chỉ tại thành phố B, tỉnh Đ. C ăn cứ vào khoản 1 Điều 30, Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định yêu cầu khởi kiện của Công ty H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Về thủ tục tố tụng khác: Ông Trần Văn C có đơn xin xét xử vắng mặt phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận; Công ty L đã được tống đạt (niêm yết) hợp lệ 02 lần (quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm và quyết định hoãn phiên tòa) nhưng vắng mặt; Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung tranh chấp:
Xét yêu cầu khởi kiện và lời trình bày của Công ty H về số nợ: Công ty L và Công ty H có ký hợp đồng mua bán giàn giáo xây dựng số 08-12/16 HĐKT- HC-LHT ngày 08/12/2016 với giá trị 2.394.574.908 đồng và hợp đồng số 33- 2017 HĐKT-HC-LHT ngày 12/7/2017 với giá trị 968.517.000 đồng. Theo trình bày của người đại diện nguyên đơn, quá trình thực hiện hợp đồng nêu trên thì Công ty L đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ số tiền là 1.845.216.544 đồng.
Nguyên đơn đã nhiều lần gửi thông báo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Công ty L về việc thanh toán công nợ nhưng công ty vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ mặc dù đã quá hạn thanh toán. Xét thấy nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị Công ty L phải thanh toán số nợ 1.845.261.544 đồng (Một tỷ tám trăm bốn mươi lăm triệu hai trăm sáu mươi mốt ngàn năm trăm bốn mươi bốn đồng) phù hợp với hợp đồng mua bán các bên đã ký. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nợ của nguyên đơn.
2.2. Xét yêu cầu về tiền lãi: Nguyên đơn Công ty H không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[3] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo giá ngạch là 67.357.846 đồng.
[4] Ý kiến của Đại diện Viện Kiểm sát và đương sự:
- Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
- Xét yêu cầu của nguyên đơn phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 30, Điều 35, 39, 147, 266, 227, 228 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 50, 54, 306 Luật Thương mại 2005; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty H về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá”.
Buộc Công ty L phải trả cho Công ty H tổng số tiền 1.845.261.544đ (Một tỷ tám trăm bốn mươi lăm triệu hai trăm sáu mươi mốt ngàn năm trăm bốn mươi bốn đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thanh toán số tiền trên, thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải thanh toán cho người được thi hành án số tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Khoản 2, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
2. Về án phí: Bị đơn Công ty L phải chịu 67.356.000 đồng (sáu mươi bảy triệu ba trăm năm mươi sáu ngàn đồng) án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí Công ty H đã nộp 33.678.000 đồng (ba mươi ba triệu sáu trăm bảy mươi tám ngàn đồng) theo biên lai thu số 0000359 ngày 16/11/2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 33/2022/DS-ST
Số hiệu: | 33/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về