TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 28/2023/KDTM-ST NGÀY 28/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Trong ngày 28 tháng 9 năm 2023 tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 71/2023/TLST-KDTM ngày 29 tháng 5 năm 2023 về việc: “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2023/QĐXX-ST ngày 28 tháng 8 năm 2023 và quyết định hoãn phiên tòa số 326/2023/QĐST-KDTM ngày 18 tháng 9 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần S;
Địa chỉ: số A - 116, Lô C, Đường I, KDC A, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Hồ D - Chức vụ: Tổng giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1979; (theo giấy ủy quyền ngày 20/10/2022), (có mặt).
Địa chỉ: Số B, Khu A, xã L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
- Bị đơn: Công ty TNHH P;
Người đại diện theo pháp luật: Bà Từ Thị Thùy L - Chức vụ: Chủ tịch HĐTV kiêm Giám đốc.
Cùng địa chỉ: Số A, khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Tấn L1, sinh năm 1975; (theo giấy ủy quyền số UQ10/06/2023PGL-NTL ngày 10/6/2023), (có mặt).
Địa chỉ: tổ F, khu phố E, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, các bản tự khai và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Công ty Cổ phần S là ông Nguyễn Văn Đ trình bày:
Về nội dung khởi kiện:
Công ty TNHH P, trụ sở tại số A, Khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, do ông Nguyễn Tấn L2 làm Giám đốc đã ký hợp đồng mua bê tông số 37/HĐMB/SZA-XNVLXD&DV ngày 01/8/2018 với Công ty Cổ phần S để thi công các công trình tại Đồng Nai.
Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty TNHH P đã mua bê tông với tổng số tiền: 5.848.223.000 đồng và đã thanh toán cho Công ty CP S tổng số tiền là 5.111.605.000 đồng, số tiền còn nợ chưa thanh toán là 736.618.000 đồng tính đến ngày 30/11/2022 là đợt phát sinh công nợ cuối cùng tính đến nay.
Hiện nay đã quá thời hạn thanh toán theo thỏa thuận tại Điều III hợp đồng số 37/HĐMB/SZA-XNVLXD&DV ngày 01/8/2018 mà Công ty TNHH P vẫn chưa thanh toán số tiền nợ trên cho Công ty Cổ phần S dù Công ty C đã yêu cầu nhiều lần.
Nay Công ty Cổ phần S kính đề nghị Q tòa xem xét và giải quyết như sau:
- Buộc Công ty TNHH P thanh toán cho Công ty Cổ phần S toàn bộ số nợ gốc là: 736.618.000 đồng và tiền lãi do chậm thanh toán tính đến ngày Tòa án xét xử, tiền lãi tạm tính từ ngày 05/4/2019 đến nay là trên 300.000.000 đồng nhưng sau khi Công ty Cổ phần S đã giảm hơn 1/2 tiền lãi cho Công ty TNHH P nên chỉ yêu cầu tiền lãi là 187.000.000 đồng. Tổng cộng số tiền yêu cầu thanh toán gốc và lãi là 923.618.000 đồng.
* Tại bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền cho bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên P là ông Nguyễn Tấn L1 trình bày:
Công ty TNHH Một thành viên P thừa nhận những lời trình bày của phía Công ty Cổ phần S là hoàn toàn đúng.
Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty TNHH P đã mua bê tông với tổng số tiền: 5.848.223.000 đồng và đã thanh toán cho Công ty Cổ phần S tổng số tiền là 5.111.605.000 đồng, số tiền còn nợ chưa thanh toán là 736.618.000 đồng tính đến ngày 30/11/2022 là đợt phát sinh công nợ cuối cùng tính đến nay, đúng như phía nguyên đơn trình bày.
Do điều kiện làm ăn kinh tế của Công ty TNHH P nên đã quá thời hạn thanh toán theo thỏa thuận tại Điều III hợp đồng số 37/HĐMB/SZA-XNVLXD&DV ngày 01/8/2018 mà Công ty TNHH P vẫn chưa thanh toán số tiền nợ trên cho Công ty Cổ phần S. Nay Công ty Cổ phần S yêu cầu Công ty TNHH P thanh toán cho Công ty Cổ phần S toàn bộ số nợ gốc là: 736.618.000 đồng và tiền lãi do chậm thanh toán tính đến ngày Tòa án xét xử là 187.000.000 đồng thì Công ty TNHH P đồng ý trả cho Công ty Cổ phần S số tiền gốc, còn tiền lãi không đồng ý thanh toán vì Công ty TNHH P làm ăn gặp khó khăn, không có khả năng trả lãi.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhung các bên không thống nhất cách giải quyết toàn bộ vụ án, đưa vụ án ra xét xử công khai.
Tại phiên tòa hôm nay, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử buộc Công ty TNHH P thanh toán cho Công ty Cổ phần S nợ gốc là 736.618.000 đồng và nợ lãi là 187.000.000 đồng, phía nguyên đơn yêu cầu tính lãi quá hạn là 10%/năm, thời hạn tính lãi là sau 05 ngày kể từ ngày xuất hóa đơn giá trị gia tăng nhu quy định trong hợp đồng, số tiền lãi đó nguyên đơn đã tạm tính hơn 300.000.000 đồng nhưng nay nguyên đơn thấy điều kiện kinh tế khó khăn nên đã giảm cho bị đơn chỉ lấy tiền lãi là 187.000.000 đồng, tổng cộng gốc và lãi nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả là 923.618.000 đồng, ngoài ra không yêu cầu gì thêm.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty TNHH P đồng ý trả nợ gốc là 736.618.000 đồng cho nguyên, thời hạn trả là cuối năm 2023, còn tiền lãi không đồng ý trả vì phía bị đơn làm ăn khó khăn nên không có khả năng trả nợ chứ không phải phía bị đơn trốn tránh nghĩa vụ trả nợ.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: đã thực hiện đúng theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; xác định quan hệ pháp luật, tư cách của đương sự và thu thập chứng cứ đúng quy định của pháp luật.
- Về việc giải quyết vụ án: Tòa án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 trong quá trình giải quyết vụ án.
Do bị đơn là Công ty TNHH P vi phạm thời hạn thanh toán theo thỏa thuận tại hợp đồng mua bê tông số 37/HĐMB/SZA-XNVLXD&DV ngày 01/8/2018 và Biên bản đối chiếu công nợ ngày 30/11/2022, nên Công ty Cổ phần S khởi kiện yêu cầu thanh toán nợ gốc và tiền lãi do chậm thanh toán là có căn cứ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu bị đơn trả lại số tiền gốc là 736.618.000 đồng và tiền lãi do nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lãi quá hạn là 10%/năm là có lợi cho bị đơn nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định của pháp luật. Bị đơn còn phải tiếp tục trả lãi chậm thanh toán theo quy định. Bị đơn phải chịu án phí sơ thẩm; H lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán nợ gốc và lãi do chậm thanh toán tiền mua hàng. Bị đơn có trụ sở tại thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 357, 430, 440 Bộ luật dân sự và Điều 306 của Luật thương mại năm 2005, đây là quan hệ về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
[2] Xét yêu cầu của các đương sự:
2.1. Về yêu cầu thanh toán nợ gốc:
Công ty Cổ phần S yêu cầu Công ty TNHH P thanh toán nợ gốc là 736.618.000 đồng. Tại Biên bản hòa giải ngày 28/8/2023 và tại phiên tòa các bên đương sự thống nhất nợ gốc Công ty TNHH P chưa thanh toán cho Công ty Cổ phần S là 736.618.000 đồng, phù hợp với Biên bản đối chiếu công nợ ngày 30/11/2022.
Đại diện bị đơn cho rằng Công ty hiện nay đang gặp khó khăn nên đề nghị thanh toán nợ gốc trong thời hạn chậm nhất cuối năm 2023 và không thanh toán lãi. Đề nghị này của bị đơn không được nguyên đơn chấp nhận. Điều 430 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán”.
Khoản 1 Điều 440 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Bền mua có nghĩa vụ thanh toán tiền theo thời hạn địa điểm và mức tiền quy định trong hợp đồng”.
Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của nguyên đơn phù hợp quy định tại Điều 430, khoản 1 Điều 440 của Bộ luật dân sự năm 2015 nên có cơ sở chấp nhận.
2.2. Về yêu cầu bị đơn trả số tiền lãi do chậm thanh toán:
Về thời hạn tính lãi:
Tại khoản 3.2 Điều III hợp đồng số 37/HĐMB/SZA-XNVLXD&DV ngày 01/8/2018 thì hai bên thỏa thuận “Bên B thanh toán trước cho bên A 50% giá trị mỗi đơn đặt hàng và thanh toán 50% còn lại của đơn hàng cho bên A sau 5 ngày kể từ ngày bên A xuất hóa đơn GTGT,... Nếu bên B không thực hiện đúng điều kiện thanh toán như trên, thì bên A có quyền ngưng cung cấp bê tông mà không cần phải lập thêm văn bản thoả thuận nào khác giữa hai bên và bên B phải chịu thêm tiền lãi suất trả chậm là lãi suất quá hạn Ngân hàng Đ1 trên tổng số tiền nợ quá hạn.” Ngày 30/11/2022, Công ty Cổ phần S lập biên bản xác nhận công nợ với Công ty TNHH P, nội dung biên bản xác nhận công nợ ghi “Hai bên cùng tiến hành đối chiếu và thống nhất công nợ đến ngày 30/11/2022, như sau:
“- Quý vị còn nợ chúng tôi: 736.618.000 đồng - ...
- Hai bên cùng xác nhận công nợ trên là đúng.” (bút lục 89) Do vậy, phía nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả tiền lãi từ thời hạn tính lãi là sau 05 ngày kể từ ngày xuất hóa đơn giá trị gia tăng là không phù hợp với biên bản xác nhận công nợ giữa nguyên đơn và bị đơn. Do đó, Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận thời hạn tính lãi chậm thanh toán tính từ ngày 30/11/2022.
Về số tiền lãi nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả 187.000.000 đồng, xét thấy:
Khoản 1 Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả”.
Điều 306 của Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng về chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Điều 11 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm quy định. “Trường hợp hợp đồng thuộc phạm vi điều chỉnh tại Điều 306 của Luật Thương mại năm 2005 thì khi xác định lãi suất chậm trả đối với số tiền chậm trả, Tòa án căn cứ vào mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường của ít nhất 03 (ba) ngân hàng thương mại (Ngân hàng thương mại cổ phần N, Ngân hàng thương mại cổ phần C1, Ngân hàng N1,...) có trụ sở, chi nhánh hoặc phòng giao dịch tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Tòa án đang giải quyết, xét xử có trụ sở tại thời điểm thanh toán (thời điểm xét xử sơ thẩm) để quyết định mức lãi suất chậm trả, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Kết quả Biên bản xác minh ngày 27/9/2023 của Tòa án tại Ngân hàng thương mại cổ phần V - chi nhánh Đ2 thì mức lãi suất quá hạn đối với nợ gốc hiện nay không được vượt quá 150% mức lãi suất cho vay trong hạn, mức lãi trong hạn từ 6% đến 16% tùy thuộc vào mục đích vay.
Tại thời điểm xét xử, mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường của ba ngân hàng nêu trên tại địa phương và Ngân hàng thương mại cổ phần V - chi nhánh Đ2 là trên 10%/năm. Do đó, nguyên đơn đề nghị mức lãi chậm thanh toán là 10%/ năm là có lợi cho bị đơn và phù hợp thỏa thuận của các bên tại hợp đồng, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 357, khoản 3 Điều 440 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 306 Luật Thương mại năm 2005; Điều 11 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, nên có cơ sở chấp nhận cho nguyên đơn số tiền lãi suất chậm trả là 10%/năm x 736.618.000 đồng x 302 ngày = 60.947.572 đồng. Bị đơn còn phải tiếp tục trả lãi theo thỏa thuận giữa hai bên được ký kết tại hợp đồng kể từ ngày tiếp theo ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong.
[3] Từ những phân tích trên, xét thấy có căn cứ chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cần buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn tổng số tiền gốc và lãi là 797.565.572 đồng. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả số tiền lãi chậm trả 126.052.428 đồng.
[4] Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận một phần nên bị đơn phải chịu án phí sơ thẩm đối với phần được chấp nhận, nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm đối với phần yêu cầu không được chấp nhận theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. H lại tiền tạm ứng án phí còn lại cho nguyên đơn.
[5] Quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
[6] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa về hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 và khoản 4 Điều 91, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 306 Luật thương mại năm 2005;
Căn cứ vào các Điều 357, 430; khoản 1, khoản 3 Điều 440 Bộ luật dân sự 2015. Căn cứ Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), Căn cứ Điều 11 của Nghị Quyết số 01/2019/NQ HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
Căn cứ Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần S đối với bị đơn là Công ty TNHH P về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”.
Buộc bị đơn Công ty TNHH P có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty Cổ phần S số tiền 797.565.572 đồng (bảy trăm chín mươi bảy triệu năm trăm sáu mươi lăm nghìn năm trăm bảy mươi hai đồng), trong đó: nợ tiền gốc mua hàng là 736.618.000 đồng (bảy trăm ba mươi sáu triệu sáu trăm mười tám nghìn đồng) và tiền lãi chậm trả là 60.947.572 đồng (sáu mươi triệu chín trăm bốn mươi bảy nghìn năm trăm bảy mươi hai đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ngày 29/9/2023 cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng mua bán số 37/HĐMB/SZA-XNVLXD&DV ngày 01/8/2018, được ký kết giữa: Bên bán, Công ty Cổ phần S; Bên mua, Công ty TNHH P.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần S đối với bị đơn là Công ty TNHH P trả số tiền lãi chậm trả 126.052.428 đồng (một trăm hai mươi sáu triệu không trăm năm mươi hai nghìn bốn trăm hai mươi tám đồng).
3. Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
- Bị đơn Công ty TNHH P phải chịu 35.902.622 đồng (ba mươi lăm triệu chín trăm lẻ hai nghìn sáu trăm hai mươi hai đồng) tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
- Nguyên đơn Công ty Cổ phần S phải chịu 6.302.622 đồng (sáu triệu ba trăm kẻ hai nghìn sáu trăm hai mươi hai đồng) tiền án phí kinh doanh thương mại, được khấu trừ vào số tiền 25.659.920 đồng (hai mươi lăm triệu sáu trăm năm mươi chín nghìn chín trăm hai mươi đồng) tiền tạm ứng án phí mà nguyên đơn Công ty Cổ phần S đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0007857 ngày 25/5/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Số tiền còn lại hoàn trả cho Công ty Cổ phần S.
4. Về quyền kháng cáo:
Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 28/2023/KDTM-ST
Số hiệu: | 28/2023/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 28/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về