Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 21/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BC GIANG

BẢN ÁN 21/2023/DS-PT NGÀY 14/02/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Do bản án 116/2022/DS-ST ngày 26/9/2022 của TAND huyện Hiệp Hòa có kháng cáo. Trong ngày 14 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 174/2022/TLPT-DS ngày 11 tháng 11 năm 2022. Về việc “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 224/2022/QĐXX-DS ngày 22/12/2022; Quyết định hoãn phiên tòa 34/2023/QĐPT-HPT ngày 18/01/2023 giữa các đương sự:

*Nguyên đơn: Bà Vũ Thị B, Sinh năm 1962 (Có đơn xin xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: thôn B, xã H, huyện H, tỉnh Bắc Giang.

*Bị đơn: Bà Trần Thị T, sinh năm 1977 (có mặt) Anh Nguyễn Trung K, Sinh năm 1975 (vắng mặt) Cư trú: Thôn V, xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang.

*Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Văn C, Sinh năm 1960 (vắng mặt);

Nơi cư trú: thôn B, xã H, huyện H, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ghi ngày 05/4/2022; bản tự khai ngày 12/7/2022; Biên bản tiếp cận công khai chứng cứ; biên bản hòa giải ngày 12/7/2022 và tại phiên tòa bà Vũ Thị B trình bày:

Gia đình bà có mở đại lý kinh doanh buôn bán cám thức ăn chăn nuôi gia súc, để bán cho các hộ chăn nuôi. Do có mối quan hệ quen biết, giữa bà và chị Trần Thị T; anh Nguyễn Trung K có thỏa thuận bà cho gia đình chị T, anh K vay 50.000.000 đồng để làm vốn mua giống gia súc về phát triển kinh tế, chị T; anh K mua cám thức ăn chăn nuôi tại đại lý của gia đình bà, thỏa thuận khi bán gia súc phải trả đủ tiền cám, nếu không trả đủ thì phải chịu lãi là 1,2%/ tháng. Số tiền 50.000.000 đồng vợ chồng chị T đã trả xong.

Theo thỏa thuận trên, bà T có đến gia đình bà mua cám chăn nuôi nhiều lần, các lần chịu lại bà đều ghi sổ sách theo dõi.

Đến ngày 24/3/2017 giữa bà và chị T có chốt nợ số tiền nợ là 165.700.000 đồng. Ngày 07/6/2017 chị T trả cho bà được 43.700.000 đồng và hai bên có chốt nợ tiền cám tổng số tiền cám chị T và anh K còn nợ là 122.000.000 đồng và bà có ghi vào giấy vay tiền 122.000.000 đồng chị T đã ký ở phía dưới.

Tuy nhiên chị T và anh K đã không thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo thỏa thuận, khi bán lợn, gia súc chị T không thanh toán tiền cám đầy đủ cho bà theo thỏa thuận, bà có đến gia đình chị T đòi nhiều lần, nhưng vợ chồng chị T cứ khất không thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận gồm tiền gốc và tiền lãi. Mãi đến năm 2020 chị T và anh K mới thanh toán trả cho bà được tổng số tiền là 80.000.000 đồng; Năm 2021 chị T, anh K trả cho bà được số tiền là 40.000.000 đồng, tổng số tiền chị T và anh K thanh toán cho bà được 120.000.000 đồng, số tiền trên chị T thanh toán bao gồm trả nợ tiền lãi và gốc mà các bên đã thỏa thuận. Đến ngày 15/11/2021 thì vợ chồng anh K chị T còn nợ bà số tiền là 69.760.000 đồng (Bao gồm có 7.000.000 tiền lãi).

Nay bà yêu cầu chị T; anh K phải có nghĩa vụ thanh toán cho gia đình số tiền là 69.760.000 đồng là số tiền nợ tính đến ngày 15/11/2021 và bà yêu cầu vợ chồng anh K; chị T tiếp tục trả tiền lãi, kể từ ngày 15/11/2021 cho đến ngày xét xử tính tròn là 10 tháng với lãi suất là 1.2%/tháng.

Tại phiên tòa bà B giữ nguyên ý kiến trình bày và đề nghị HĐXX xem xét yêu cầu vợ chồng chị T và anh K phải trả số tiền nợ gốc tính đến ngày 15/11/2021 là 63.551.000 đồng, và tiền lãi theo thỏa thuận là 1.2%/tháng tính đến ngày xét xử tính tròn là 10 tháng.

Đối với số tiền lãi 7.000.000 đồng được ghi trong giấy vay tiền của số tiền vay ngày 13/10/2016 bà đề nghị HĐXX xem xét.

Bị đơn chị Trần Thị T; tại bản tự khai; biên bản hòa giải trình bày:

Năm 2016 chị có đến gia đình bà B mua cám nhiều lần, có lần trả và có lần chịu lại là đúng, giữa chị và bà B có chốt nợ với nhau thì gia đình chị còn nợ bà B số tiền cám là 122.000.000 đồng (Một trăn hai mươi hai triệu đồng), tuy nhiên chị và gia đình đã trả cho bà B được 120.000.000 đồng, hiện nay chỉ còn nợ 2.000.000 đồng tiền nợ gốc.

Số tiền mua cám thanh toán trả cụ thể:

- Ngày 05/3/2020 trả 20.000.000 đồng - Ngày 02/4/2020 trả 50.000.000 đồng - Ngày 11/10/2020 trả 10.000.000 đồng - Ngày 03/3/2021 trả 10.000.000 đồng - Ngày 15/11/2021 trả 30.000.000 đồng Số tiền 69.760.000 số tiền này là do bà B tính lãi của số tiền nợ mua cám 122.000.000 đồng do vậy chị không đồng ý trả. Nay chị chỉ đồng ý trả bà B số tiền còn lại 2.000.000 đồng, về tiền lãi chị không nhất trí vì khi mua bán cám chịu bà B đã tính lãi rồi.

Chị xác định không thỏa thuận về lãi là 1.2% với bà B; nội dung giấy ghi “Lấy cám nuôi lợn chịu, khi bán lợn hết mà không trả đủ tiền cám phải chịu lãi suất là 1,2%/ tháng có ký chữ “Thêu” không phải chữ ký của chị, chị đề nghị đi giám định để cho chính xác.

Bị đơn anh Nguyễn Trung K tại biên bản ghi lời khai ngày 03/6/2022 anh K trình bày:

Anh là chồng chị Trần Thị T, do anh đi làm công ty ít khi ở nhà, nên việc chị T ở nhà, lấy cám chăn nuôi và thanh toán tiền cho bà B như thế nào thì anh không được biết, tuy nhiên theo như anh được biết thì vợ anh đã thanh toán trả cho bà B được 120.000.000 đồng tiền nợ gốc, hiện nay chỉ còn nợ 2.000.000 đồng, anh đồng ý trả số tiền còn nợ. Bà B yêu cầu trả số tiền còn nợ 69.760.000 đồng thì anh không đồng ý trả.

Với nội dung trên; tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa đã quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị B Buộc bà Trần Thị T; ông Nguyễn Trung K phải liên đới trả trả cho bà Vũ Thị B; ông Nguyễn Văn C số tiền còn nợ là 71.177.000 đồng, trong đó tiền gốc là 63.551.000 đồng, tiền lãi: 7.626.000 đồng. Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo.

Ngày 17/10/2022 bà Trần Thị T1 làm đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm bà T1 vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, nhưng không cung cấp thêm được tài liệu chứng cứ nào khác để bảo vệ quyền lợi của mình.

Đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang phát biểu ý kiến; về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử, những người tham gia tố tụng khác trong vụ án đều thực hiện đầy đủ, đúng quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

Không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị T; Giữ nguyên bản án sơ thẩm đã xử.

Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà T phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra công khai tại phiên toà; Hội đồng xét xử nhận định.

Xét kháng cáo của bà T thì thấy: Đơn kháng cáo của bà T nộp đúng thời hạn quy định nên được xem xét và thụ lý theo trình tự phúc thẩm.

Căn cứ lời khai của nguyên đơn; bị đơn và các tài liệu chứng cứ thể hiện giữa các bên có chốt nợ với nhau tiền mua cám, tính đến 15/11/2017 vợ chồng ông K và bà T còn nợ là 122.000.000 đồng là có thật. Sau đó tính đến ngày 15/11/2021 bà T và ông K đã trả cho gia đình bà B 120.000.000 đồng (Ngày 05/3/2020 trả 20.000.000 đồng; Ngày 02/4/2020 trả 50.000.000 đồng; Ngày 11/10/2020 trả 10.000.000 đồng; Ngày 03/3/2021 trả 10.000.000 đồng; Ngày 15/11/2021 trả 30.000.000 đồng).

Trong các giấy tờ bà B cung cấp cụ thể giấy đề ngày 24/3/2017 và giấy đề 06/6/2017 có ghi “Khiên, T xóm Vân A, Lương P lấy cám chịu, khi bán hết nứa lợn mà không trả hết thì phải tính lãi là 1,2%/01 tháng, cả hai giấy đều có chữ ký của bà T.

Bà T không thừa nhận có việc thỏa thuận lãi 1,2%/01 tháng nhu đã nêu ở trên, tuy nhiên bà T không đưa ra được căn cứ gì chứng minh cho ý kiến trình bày của mình là có căn cứ, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bà T và bà B có thỏa thuận về nghĩa vụ trả lãi, nếu bà T vi phạm nghĩa vụ trả nợ tiền cám theo thỏa thuận giữa các bên về mua bán hàng hóa với nhau. Nên bà T, ông K phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền lãi từ ngày 15/11/2017 là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 440 Bộ luật dân sự.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bà T, ông K phải trả tiền lãi từ ngày 15/11/2017 đến ngày xét xử sơ thẩm 26/9/2022 với mức lãi suất 1,2%/tháng; số tiền đã trả các lần được trừ vào tiền lãi, nếu thừa được trừ vào tiền gốc để tính tiền lãi của kỳ tiếp theo. Tổng cộng số tiền còn phải trả 71.177.000 đồng (tiền gốc là 63.551.000 đồng, tiền lãi: 7.626.000 đồng) và buộc bà T và ông K phải trả cho vợ chồng bà B là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà T không cung cấp thêm được tài liệu, chứng cứ nào khác để bảo vệ quyền lợi của mình , nên không có căn cứ để được chấp nhận. Do kháng cáo không được chấp nhận, nên bà T phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 308, Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

1. Không chấp nhận của bà Vũ Thị B, Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 116/2022/DSST ngày 26/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa.

2. Về án phí: Bà T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm (xác nhận bà T đã nộp đủ án phí phúc thẩm theo biên lai thu số 0008367 ngày 17/10/2022 của Chi cục THADS huyện H).

Án xử phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 21/2023/DS-PT

Số hiệu:21/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về