TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 05/2024/KDTM-PT NGÀY 02/07/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN
Ngày 02 tháng 7 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh A xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 03/2024/TLPT-KDTM ngày 08 tháng 4 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 02/2024/KDTM-ST ngày 24 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh A bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 04/2024/QĐXXPT- KDTM ngày 17 tháng 5 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2024/QĐ-PT ngày 06 tháng 6 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn U Việt Nam (gọi tắt là công ty TNHH U Việt Nam) ; trụ sở: Số 16-18- 20 đường ĐT 743, Khu Công nghiệp Sóng Thần 2, phường Dĩ An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện theo pháp luật: Ông CHEN KUO P - Chức vụ: Tổng Giám đốc).
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Dương Quốc Hùng, sinh ngày 15/01/1981; nơi cư trú: Số 3, đường số 16, khóm Bình Khánh 5, phường Bình Khánh, thành phố Long Xuyên, tỉnh A (theo giấy ủy quyền số 202303/UP-GUQ ngày 07/11/2023), có mặt.
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1981, Chủ hộ kinh doanh T; nơi cư trú: Tổ 05, khóm Vĩnh Phú, thị trấn Vĩnh Thạnh Trung, huyện C, tỉnh A.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Thanh Tùng, sinh năm 1984; nơi cư trú: ấp Trung, xã Tân Thạnh, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp (theo văn bản ủy quyền ngày 13/11/2023), có mặt.
3. Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Tr – bị đơn Nguyên đơn không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung án sơ thẩm:
* Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH U Việt Nam trình bày:
Bà Nguyễn Thị Tr – Chủ hộ kinh doanh T có mua thức ăn nuôi cá của Công ty TNHH U Việt Nam do Chi nhánh Công ty Trách nhiệm hữu hạn U Việt Nam tại Tiền Giang đại diện ký hợp đồng, hàng hóa bà Nguyễn Thị Tr mua theo hóa đơn số 11091 ngày 28/12/2022 số tiền 1.222.500.000 đồng, hóa đơn số 96 ngày 04/01/2023 số tiền 1.711.500.000 đồng. Sau khi mua hàng thì bà Tr đã chuyển khoản thanh toán một phần và khấu trừ tiền được chiết khấu một phần. Bà Tr còn nợ Công ty TNHH U Việt Nam 680.110.000 đồng chưa thanh toán tại hóa đơn số 96 ngày 04/01/2023. Việc mua bán thức ăn theo hóa đơn số 96 ngày 04/01/2023 hai bên chỉ thỏa thuận bằng lời nói, không thỏa thuận lãi suất chậm thanh toán. Bà Nguyễn Thị Tr hứa đến ngày 30/4/2023 sẽ thanh toán 680.110.000 đồng còn nợ nhưng đến nay bà Tr vẫn không thanh toán.
Công ty TNHH U Việt Nam khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị Tr - Chủ hộ kinh doanh T thanh toán 680.110.000 đồng (Sáu trăm tám mươi triệu một trăm mười nghìn đồng) tiền mua thức ăn nuôi cá còn nợ và tiền lãi chậm trả với mức lãi suất 10%/năm, kể từ ngày 30/5/2023 cho đến khi thanh toán xong cho Công ty TNHH U Việt Nam.
Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn rút lại yêu cầu buộc bà Tr trả tiền lãi chậm thanh toán từ ngày 30/5/2023 cho đến khi Tòa án xét xử.
* Bị đơn bà Nguyễn Thị Tr trình bày:
Bà là chủ hộ kinh doanh T, ngoài bà thì không còn thành viên nào khác tham gia kinh doanh trong hộ. Bà có mua thức ăn nuôi cá của Công ty TNHH U Việt Nam theo 02 hóa đơn số 11091 ngày 28/12/2022 và số 96 ngày 04/01/2023. Sau đó bà đã thanh toán và chỉ còn nợ Công ty TNHH U Việt Nam 680.110.000 đồng. Bà có hứa đến 30/4/2023 sẽ thanh toán 680.110.000 đồng cho Công ty TNHH UNI- PRESIDENT Việt Nam, nhưng với điều kiện Công ty TNHH U Việt Nam phải hỗ trợ do thức ăn giảm chất lượng và dịch bệnh, nhưng Công ty không hỗ trợ, người của công ty có xuống các hộ nuôi xem xét và trở về đại lý cam kết sẽ điều chỉnh chất lượng nhiều lần nhưng không thực hiện.
Nay, bà vẫn còn nợ Công ty TNHH U Việt Nam số tiền 680.110.000 đồng, nhưng không đồng ý thanh toán, lý do thức ăn Công ty TNHH U Việt Nam không chất lượng.
Yêu cầu Công ty TNHH U Việt Nam bồi thường thiệt hại số tiền 5.000.000.000 đồng, lý do: Thức ăn nuôi cá không chất lượng làm người nuôi cá không có tiền thanh toán cho bà nên bà phải vay tiền để trả cho Công ty TNHH U Việt Nam; yêu cầu phải trả lãi 0.8%/tháng trên số tiền 20.000.000.000đồng (Hai mươi tỷ đồng), tính từ 01/01/2020 đến thời điểm Tòa án xét xử, lý do thức ăn nuôi cá không chất lượng nên người nuôi cá không có tiền trả nên nợ cho bà.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2024/KDTM-ST ngày 24 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh A tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH U Việt Nam. Buộc bà Nguyễn Thị Tr – Chủ hộ kinh doanh T phải trả cho Công ty TNHH U Việt Nam 680.110.000đồng (Sáu trăm tám mươi triệu một trăm mười nghìn đồng) tiền mua thức ăn nuôi cá chưa thanh toán theo hóa đơn số 96 ngày 04/01/2023.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện về tiền lãi chậm thanh toán từ ngày 30/5/2023 đến ngày xét xử của Công ty TNHH U Việt Nam.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05/02/2024 bà Nguyễn Thị Tr có đơn kháng cáo, nội dung: yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh A xem xét buộc nguyên đơn bồi thường tổn thất cho bà với số tiền là 5.000.000.000 đồng (năm tỷ đồng) và lãi suất lãi suất 0,8%/tháng/20.000.000.000 đồng (hai mươi tỷ đồng), tính từ ngày 01/01/2020 đến nay.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xác nhận vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về hướng giải quyết vụ án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Bà Tr thừa nhận còn nợ công ty Công ty TNHH U Việt Nam nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà Tr trả nợ là đúng quy định pháp luật. Bà Tr kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét bồi thường tổn thất cho bà với số tiền là 5.000.000.000 đồng (năm tỷ đồng) và lãi suất lãi suất 0,8%/tháng/20.000.000.000 đồng (hai mươi tỷ đồng). Tuy nhiên, tại giai đoạn sơ thẩm, yêu cầu này của bà Tr không được Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý, bà Tr không khiếu nại; trong giai đoạn phúc thẩm bà Tr cũng không cung cấp được chứng cứ để chứng minh yêu cầu kháng cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Tr, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị Tr trong hạn luật định có nộp tạm ứng án phí phúc thẩm nên được Hội đồng xét xử chấp nhận, xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Việc ủy quyền tham gia tố tụng của nguyên đơn và bị đơn đều phù hợp quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2] Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị Tr, yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh A xem xét buộc nguyên đơn bồi thường tổn thất cho bà với số tiền là 5.000.000.000 đồng (năm tỷ đồng) và lãi suất lãi suất 0,8%/tháng/20.000.000.000 đồng (hai mươi tỷ đồng), tính từ ngày 01/01/2020 đến nay.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, ngày 10/11/2023 bà Tr có gửi đơn khởi kiện đối với ông CHEN – I – S, Tổng Giám đốc Công ty TNHH U Việt Nam, yêu cầu Công ty TNHH U Việt Nam bồi thường tổn thất cho bà với số tiền là 5.000.000.000 đồng (năm tỷ đồng) và lãi suất lãi suất 0,8%/tháng/20.000.000.000 đồng (hai mươi tỷ đồng). Đơn khởi kiện của bà Tr đã bị Tòa án cấp sơ thẩm trả lại bằng Thông báo trả lại đơn khởi kiện số 1781/TB-TA ngày 20/11/2023, đã tống đạt trực tiếp cho bà Tr ngày 22/11/2023; bà Tr không có khiếu nại đối với thông báo này.
Theo quy định tại Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung dung kháng cáo. Tuy nhiên, tại Bản án số 02/2024/KDTM-ST ngày 24/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện C không thụ lý, giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại của bà Tr, nên không có cơ sở để Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết yêu cầu kháng cáo của bà.
Từ những chứng cứ trên, Hội đồng xét xử xét thấy kháng cáo của bà Tr không có cơ sở để xem xét giải quyết; cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
[3] Án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà Tr phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[4] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Khoản 1 Điều 308, Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Tr; giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2024/KDTM-ST ngày 24 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh A.
Căn cứ các điều 24, 50, 55 của Luật Thương mại
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn UNI- PRESIDENT Việt Nam.
Buộc bà Nguyễn Thị Tr – Chủ hộ kinh doanh T phải trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn U Việt Nam số tiền 680.110.000 đồng (Sáu trăm tám mươi triệu một trăm mười nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện về tiền lãi chậm thanh toán từ ngày 30/5/2023 đến ngày xét xử của Công ty trách nhiệm hữu hạn U Việt Nam.
3. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
- Bà Nguyễn Thị Tr – Chủ hộ kinh doanh T phải chịu 31.204.400 đồng tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
- Công ty TNHH U Việt Nam không phải chịu án phí nên được nhận lại 16.530.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0015363 ngày 09/10/2023 của chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh A.
4. Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Tr phải chịu số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005305 ngày 21/02/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh A (bà Tr đã nộp đủ).
5. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 192/2024/KDTM-PT
Số hiệu: | 192/2024/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân An Giang |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 26/07/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về