TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 13/2023/KDTM-ST NGÀY 21/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Ngày 21 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại số 07/2023/TLST-KDTM ngày 28 tháng 4 năm 2023 về việc “tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 358/2023/QĐXXST-KDTM ngày 11 tháng 7 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 340/2023/QĐST-KDTM ngày 31 tháng 7 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty TNHH một thành viên N;
Địa chỉ trụ sở: Tổ H, ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang;
Người đại diện theo pháp luật: bà Phạm Thị Minh T, chức danh: giám đốc;
Địa chỉ nơi làm việc: Tổ H, ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang;
Người đại diện theo ủy quyền: bà Phạm Thị Mỹ T1, sinh năm 1976;
Cư trú: ấp S, xã D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
2. Bị đơn: Công ty TNHH X;
Địa chỉ trụ sở: số A - A - 16B1 đường P, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang;
Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Thanh G, chức danh: giám đốc;
Địa chỉ nơi làm việc: số 14 - 15 - 16B1 đường P, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.
3. Người làm chứng:
- Bà Thái Thị Ngọc M - Bà Phạm Hoàng P Tại phiên tòa, bà T1 đại diện cho Công ty TNHH một thành viên N có mặt, đại diện cho Công ty TNHH X vắng mặt; những người làm chứng vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình làm việc, hòa giải, giải quyết vụ án, người đại diện của nguyên đơn trình bày:
Công ty TNHH một thành viên N (viết tắt là Công ty N) có thực hiện mua bán vật liệu xây dựng với Công ty TNHH X (viết tắt là Công ty X), hai bên có xác lập Hợp đồng mua bán vật liệu xây dựng số 0501/HĐMB/2022 ngày 01 tháng 01 năm 2022. Từ ngày ký hợp đồng Công ty N đã thực hiện giao hàng cho Công ty X theo đúng thỏa thuận. Mỗi lần giao hàng đều có biên bản giao nhận. Giá trị hàng hóa được xác định theo từng thời điểm giao hàng. Việc đối chiếu công nợ được kế toán của hai công ty thực hiện định kỳ 02 lần/tháng, đối với từng dự án xây dựng. Nếu Công ty X nhận được bảng đối chiếu công nợ mà không phản hồi thì xem như số liệu đối chiếu là đúng.
Tuy nhiên, trong khi Công ty N thực hiện đúng thỏa thuận trên hợp đồng thì Công ty X lại không thực hiện đúng thỏa thuận thanh toán. Tính đến ngày 31 tháng 10 năm 2022 Công ty X còn nợ lại Công ty N số tiền 496.976.000 đồng và đã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho đến nay. số tiền công nợ này đã được kế toán của Công ty X là bà Thái Thị Ngọc M và bà Phạm Hoàng Phúc kiểm t số hàng đã nhận, đối chiếu và xác nhận lại với kế toán của Công ty N.
Khi xác lập hợp đồng mua bán hai bên có thỏa thuận, nếu Công ty X nhận được thông báo thanh toán mà chưa thanh toán thì Công ty N có quyền ngừng cung cấp vật tư và Công ty X phải chịu lãi quá hạn trên giá trị chậm trả, được tính theo lãi suất quá hạn của Ngân hàng N1 công bố tại thời điểm trả chậm trên số ngày chậm thanh toán.
Khi Công ty X không thực hiện nghĩa vụ thanh toán, Công ty N đã nhiều lần gửi các bảng đối chiếu công nợ, mà vẫn không nhận được phản hồi. Sau đó, Công ty N cũng nhiều lần liên hệ yêu cầu Công ty X trả tiền, nhưng lãnh đạo Công ty X không liên lạc được còn trụ sở công ty thì đóng cửa.
Công ty N yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty X trả cho Công ty N số tiền 496.976.090 đồng và tiền lãi quá hạn do chậm thanh toán như sau: mức lãi suất 1%/tháng, thời hạn chậm thanh toán từ tháng 11 năm 2022 đến tháng 3 năm 2023 tạm tính là 24.848.355 đồng; và yêu cầu tiếp tục tính lãi theo thỏa thuận trên hợp đồng cho đến khi trả nợ xong.
Bị đơn Công ty TNHH X: Vắng mặt và không có ý kiến trình bày bằng văn bản.
Người làm chứng:
- Bà Phạm Hoàng P trình bày: bà là nhân viên phòng cung ứng vật tư có nhiệm vụ đặt mua hàng theo chỉ định của giám đốc Công ty X là ông Nguyễn Thanh G. Sau khi nhận được hàng, thủ kho sẽ kiểm tra số lượng, ghi nhận vào phiếu nhập kho. Bà có nhiệm vụ kiểm tra số lượng hàng hóa nhập vào từ Công ty N, đối chiếu biên nhận mua hàng và phiếu nhập kho. Sau đó, bà đưa cho trưởng phòng cung ứng kiểm tra ký nháy vào phiếu nhập kho, và bà đem sang phòng kế toán kiểm tra. Kế toán trưởng kiểm tra và trình cho ông Nguyễn Thanh G ký nhận Bảng thanh toán công nợ. Phòng kế toán (phân công nhân sự) thanh toán dựa vào bảng thanh toán công nợ mà ông Nguyễn Thanh G đã ký. Bà biết việc đặt hàng, giao nhận hàng giữa Công ty N và công ty X. Ngoài ra, bà còn được phân công chốt công nợ giữa của Công ty N và công ty X. Tháng 10 năm 2022, Công ty X có nhận được Bảng đối chiếu công nợ do Công ty N gửi. Sau đó thì các bên không có giao dịch gì nữa. Công ty X vẫn còn nợ tiền Công ty N. Các hình chụp tin nhắn zalo do nguyên đơn cung cấp là từ tài khoản zalo C.Phuc - MNLX của bà P, hiện nay bà vẫn quản lý, sử dụng tài khoản này. Bà cam đoan lời khai hoàn toàn trung thực, khách quan.
Tòa án đã tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tiến hành hòa giải nhưng bị đơn đều vắng mặt không lý do, nên vụ án không tiến hành hòa giải được. Do đó, Tòa án mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai vụ án để Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
Tại phiên tòa:
- Bà Phạm Thị Mỹ T1 đại diện cho Công ty N trình bày ý kiến: vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện yêu cầu Công ty X trả số tiền 496.976.090 đồng, còn tiền lãi thì được tính theo mức lãi suất cao nhất theo quy định của Ngân hàng N1 như trên Hợp đồng mua bán mà hai bên đã thỏa thuận, việc tính lãi là từ ngày 01 tháng 11 năm 2022.
- Đại diện cho bị đơn: vắng mặt và không cung cấp ý kiến, tài liệu, chứng cứ.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và việc giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng nhiều lần vắng không lý do, không tham gia các phiên hòa giải, công khai chứng cứ, không trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: việc Công ty X nợ tiền hàng của Công ty N với số tiền 496.976.090 đồng được thể hiện trong các bảng đối chiếu công nợ, các bảng đối chiếu công nợ này được gửi cho Công ty X đúng như thỏa thuận. Người làm chứng là bà Phạm Hoàng P nguyên là nhân viên cung ứng vật tư của Công ty X xác nhận: có việc Công ty X thiếu tiền hàng của nguyên đơn và nguyên đơn có gửi các bảng đối chiếu công nợ cho bị đơn theo đúng thỏa thuận. Mặt khác, tại hợp đồng đã ký kết thì giữa Công ty X và Công ty N có thỏa thuận lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ theo mức lãi suất do Ngân hàng NI quy định tại thời điểm chậm thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy, yêu cầu của Công ty N về số tiền nợ gốc và lãi suất là có cơ sở chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả việc tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả tiền mua hàng còn nợ. Bị đơn có trụ sở đăng ký kinh doanh tại thành phố L; các bên đều có đăng ký kinh doanh và hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận. Do đó, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án kinh doanh thương mại về “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên.
[2] Về thủ tục tố tụng: Công ty X đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không lý do; nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung tranh chấp:
[3.1] Giữa Công ty N và Công ty X có xác lập Hợp đồng mua bán vật liệu xây dựng số 0501 ngày 01 tháng 01 năm 2022 đề Công ty N bán cho Công ty X hàng hóa là vật liệu xây dựng. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty X đã nhận hàng hóa, đã được Công ty N thông báo số tiền công nợ nhưng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Sau khi Công ty N nhiều lần yêu cầu thanh toán, Công ty X vẫn không trả số tiền còn nợ, nên Công ty N mới khởi kiện yêu cầu trả tiền hàng còn nợ và yêu cầu trả lãi. Công ty X đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt và không cung cấp ý kiến, tài liệu chứng cứ, phản bác ý kiến của nguyên đơn.
[3.2] Xét thấy: hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên được xác lập trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không bị lừa dối hay ép buộc nên là giao dịch hợp pháp và làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên. Căn cứ vào các biên bản giao nhận hàng, biên bản đối chiếu công nợ và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp đều thể hiện Công ty N đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao hàng, cung cấp hồ sơ hàng hóa, hồ sơ thanh quyết toán theo thỏa thuận tại hợp đồng đã ký kết. Nhưng Công ty X sau một thời gian dài thực hiện giao dịch, lại không tiếp tục trả tiền hàng là đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán mà các bên thỏa thuận. Theo hợp đồng đã ký kết thì “nếu Công ty X nhận được bảng đối chiếu công nợ mà không phản hồi thì xem như số liệu đối chiếu là đúng”. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến khi xét xử, Công ty X không cung cấp ý kiến, tài liệu chứng cứ phản bác yêu cầu của nguyên đơn. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc trả số tiền nợ gốc 496.976.090 đồng là có căn cứ để chấp nhận.
[3.3] Về yêu cầu trả lãi chậm thanh toán. Tại Hợp đồng mua bán vật liệu xây dựng số 0501 ngày 01 tháng 01 năm 2022 được ký kết, hai bên thỏa thuận nếu Công ty X nhận được thông báo thanh toán mà chưa thanh toán thì Công ty X phải chịu lãi quá hạn trên giá trị chậm trả, được tính theo lãi suất quá hạn của Ngân hàng N1 công bố tại thời điểm trả chậm trên số ngày chậm thanh toán. Công ty N yêu cầu Công ty X phải trả lãi trên số tiền công nợ từ ngày 01 tháng 11 năm 2022 theo thỏa thuận này. Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, Công ty X không có ý kiến gì về việc chậm thanh toán, lãi chậm thanh toán.
[3.3.1] Xét thấy: Thỏa thuận về việc chịu lãi do chậm thanh toán của các bên phù hợp với quy định tại Điều 306 Luật Thương mại. Căn cứ Quyết định 1123/QĐ-NHNN ngày 16 tháng 6 năm 2023 của Ngân hàng N1 thì lãi suất cho vay cao nhất hiện nay của Ngân hàng N1 là 4,5%/năm. Còn tại Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng thì lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn.
[3.3.2] Về thời gian chậm thanh toán, Công ty X đã nhận được bảng đối chiếu công nợ ngày 25 tháng 10 năm 2022, các hóa đơn, chứng từ, nhưng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong thời hạn 05 ngày kể từ khi nhận đủ chứng từ, hóa đơn do Công ty N giao như thỏa thuận trong hợp đồng đã ký kết. Vì vậy, yêu cầu tính lãi từ ngày 01 tháng 11 năm 2022 của Công ty N là có cơ sở.
[3.3.3] Vì vậy, Công ty X phải trả số tiền lãi từ ngày 01 tháng 11 năm 2022 tạm tính đến ngày xét xử sơ thẩm 21 tháng 8 năm 2023 là: 496.976.090 đồng x (4,5%/năm x 150%) x 09 tháng 20 ngày = 27.020.522 đồng [3.3.4] Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, Công ty X còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chưa thanh toán theo mức lãi suất bằng 150% lãi suất quy định của Ngân hàng N1 tại thời điểm thanh toán.
[3.4] Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ đề chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty N để buộc Công ty X phải trả cho Công ty N số tiền tạm tính đến ngày xét xử sơ thẩm là: 523.996.612 đồng.
[5] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên Công ty N không phải chịu án phí sơ thẩm. Công ty X phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Các Điều 30, 35, 39, 144, 147, 227, 228, 235,271, 273, 278 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Các Điều 24, 50, 55, 306 Luật Thương mại năm 2005.
- Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH một thành viên N đối với Công ty TNHH X.
Buộc Công ty TNHH X có nghĩa vụ trả cho Công 0ty TNHH một thành viên N số tiền tổng cộng là: 523.996.612 đồng (năm trăm hai mươi ba triệu chín trăm chín mươi sáu nghìn sáu trăm mười hai đồng) trong đó: số tiền nợ gốc là 496.976.090 đồng (bốn trăm chín mươi sáu triệu chín trăm bảy mươi sáu nghìn không trăm chín mươi đồng) và tiền lãi tạm tính đến ngày 21 tháng 8 năm 2023 là 27.020.522 đồng (hai mươi bảy triệu không trăm hai mươi nghìn năm trăm hai mươi hai đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, cho đến khi thi hành án xong, Công ty TNHH X còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thanh toán theo mức lãi suất bằng 150% lãi suất quy định của Ngân hàng N1 tại thời điểm thanh toán.
2. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Công ty N không phải chịu tiền án phí sơ thẩm nên được nhận lại số tiền 12.436.209 đồng (mười hai triệu bốn trăm ba mươi sáu nghìn hai trăm linh chín đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0001674 ngày 25 tháng 4 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Công ty TNHH X phải chịu tiền án phí sơ thẩm là 24.959.864 đồng (hai mươi bốn triệu chín trăm năm mươi chín nghìn tám trăm sáu mươi bốn đồng).
3. Về quyền kháng cáo:
Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 13/2023/KDTM-ST
Số hiệu: | 13/2023/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 21/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về