TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 12/2023/KDTM-ST NGÀY 25/05/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Trong ngày 25 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận N, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 41/2023/TLST- KDTM, ngày 13 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 216/2023/QĐXXST-KDTM ngày 28/3/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 85/2023/QĐST-KDTM, ngày 26/4/2023, các đương sự:
Nguyên đơn: Công Ty Cổ Phần Đầu Tư HA Địa chỉ: Ấp Đường Long, xã Thanh T, huyện Dầu T, tỉnh Bình Dương.
Đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Như Y SN: 1975 Địa chỉ: V Hàm Tử, phường X, quận X, thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn M SN: 1978 Địa chỉ: Ấp Đường Long, xã Thanh T, huyện Dầu T, tỉnh Bình Dương. (Có mặt)
Bị đơn: Công ty TNHH Vật Liệu Xây Dựng MKX Đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Thùy N Địa chỉ: 62 NVC, phường AB, quận N, thành phố C. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ kiện, nguyên đơn trình bày: Khoảng từ năm 2017, giữa bị đơn là Công ty TNHH Vật Liệu Xây Dựng MKX (trước đây là công ty Trung Nhân) và nguyên đơn có thỏa thuận mua bán sản phẩm gạch men với nhau. Trong quá trình thực hiện mua bán hàng hóa, bị đơn nhiều lần không hoàn thành việc thanh toán theo thỏa thuận.
Đến ngày 25/12/2020, nguyên đơn và bị đơn chốt công nợ. Cụ thể bị đơn nợ nguyên đơn số tiền 240.000.000 đồng; các bên thống nhất, bị đơn sẽ thanh toán cho nguyên đơn thành 3 đợt:
Đợt 1 ngày 12/01/2021: 40.000.000 đồng Đợt 2 tết âm lịch trả từ 70.000.000 – 100.000.000 đồng; Đợt 3, tháng 4/2021 trả dứt điểm;
Nhưng đến thời điểm hiện tại, 10/5/2022, bị đơn chỉ thanh toán được 50.000.000 đồng;
Do bị đơn không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu tòa án buộc bị đơn thanh toán: tổng số tiền 218.369.299 đồng, (trong đó nợ gốc:
190.000.000 đồng; nợ lãi đến ngày 10/5/2022 28.396.299 đồng) Tại buổi hòa giải ngày 09/01/2023, đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn xác nhận có nhận từ đại diện bị đơn số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng, (trừ vào số nợ gốc), như vậy, số tiền nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán đến ngày 09/01/2023 là 170.000.000 đồng nợ gốc và lãi xuất đến ngày 10/5/2022 là 28.369.299 đồng.
Đại diện bị đơn bà Thùy N trình bày: Bà thống nhất nội dung khởi kiện của nguyên đơn về số nợ gốc 190.000.000 đồng mà nguyên đơn yêu cầu thanh toán.
Bà N trình bày, trong quá trình giải quyết, bị đơn có thanh toán thêm cho nguyên đơn 20.000.000 đồng. Vì vậy, bà đề nghị được khấu trừ số tiền này vào phần nợ gốc.
Như vậy, đến ngày 09/01/2023, bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền 170.000.000 (một trăm bảy mươi triệu) đồng nợ gốc.
Đối với lãi xuất quá hạn đến ngày 10/5/2022 là 28.369.299 đồng, bà yêu cầu đại diện nguyên đơn xem xét lại và không tính lãi suất phát sinh thêm kể từ sau ngày 10/5/2023 để bà có điều kiện thanh toán dứt điểm cho nguyên đơn.
Như vậy, trong quá trình giải quyết vụ án, các bên thống nhất: Bị đơn có nợ nguyên đơn như yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho đến ngày 09/01/2023 là 170.000.000 đồng.
Không thống nhất yêu cầu về lãi suất phát sinh của nguyên đơn.
Căn cứ Điều 207 Bộ luật Tố Tụng Dân sự, vụ kiện thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được.
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, Tòa án nhân dân quận N tiến hành đưa vụ án ra xét xử.
Vụ án được xét xử công khai.
Tại phiên tòa:
- Đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, và trình bày:
Từ sau ngày 09/01/2023, bị đơn có thanh toán thêm cho nguyên đơn số tiền 45.000.000 đồng (tiền gốc); về lãi suất phát sinh, nguyên đơn chỉ yêu cầu theo đơn khởi kiện là 28.369.299 đồng, không tính lãi phát sinh thêm kể từ sau ngày 10/5/2022.
Tại phiên tòa, số tiền yêu cầu bị đơn thanh toán:
- Nợ gốc 125.000.000 đồng;
- Nợ lãi 28.369.299 đồng;
- Bị đơn vắng mặt không lý do cũng như không có văn bản phản hồi, nên không rõ ý kiến.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng và quan hệ tranh chấp:
Căn cứ lời trình bày về mục đích giao dịch giữa nguyên đơn và bị đơn, căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; địa chỉ trụ sở của bị đơn; Tòa án xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân quận N theo Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bị đơn đã được tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định, nhưng vắng mặt không lý do. Vì vậy căn cứ Điều 227 và 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
Căn cứ vào khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì bị đơn đã tự từ bỏ quyền được chứng minh của mình qua việc không đến tham dự phiên tòa. Đương sự phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại các Điều 6; Điều 24; Điều 91 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
2.1 Đối với yêu cầu buộc bị đơn Công ty TNHH Vật Liệu Xây Dựng MKX có trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn số tiền 125.000.000 đồng nợ gốc:
Căn cứ và các chứng cứ có tại hồ sơ, lời trình bày của các đương sự trong quá trình giải quyết. Thấy rằng, tại văn bản Đối chiếu công nợ, ngày 25/12/2020, các bên xác nhận tổng số tiền nợ và thời hạn thanh toán giống như trình bày của nguyên đơn tại đơn khởi kiện.
Tại biên bản hòa giải ngày 09/01/2023, bị đơn thừa nhận có nợ tiền hàng và đã thanh toán được một phần. Tính đến ngày 09/01/2023, giữa nguyên đơn và bị đơn thống nhất số nợ gốc còn lại là 170.000.000 đồng và lãi suất phát sinh.
Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn trình bày, sau ngày 09/01/2023, bị đơn nhiều lần chuyển khoảng thanh toán nguyên đơn, tổng số tiền là 45.000.000 đồng. Số tiền này nguyên đơn khấu trừ vào số nợ gốc mà bị đơn còn thiếu. Như vậy, đến ngày 25/5/2023, số nợ gốc còn lại là 125.000.000 đồng. Đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn không cung cấp chứng cứ gì cho lời trình bày này. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa. Nhưng lời thừa nhận này có lợi cho bị đơn nên hội đồng xét xử chấp nhận.
2.2 Về yêu cầu thanh toán lãi xuất phát sinh 28.369.299 đồng: Tại buổi hòa giải 09/01/2023, bị đơn cũng thừa nhận số tiền lãi phát sinh, chỉ yêu cầu nguyên đơn không tính thêm lãi suất kể từ sau ngày 10/5/2022, để bị đơn có điều kiện thanh toán dứt điểm cho nguyên đơn. Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn cũng thống nhất chỉ yêu cầu số tiền lãi là 28.369.299 đồng, không yêu cầu thêm. Vì vậy hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí trên số tiền phải trả cho nguyên đơn.
[4] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điều 6; Điều 24; Khoản 3 Điều 26; Điểu 35; Khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 180; Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 430, Điều 440, Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Căn cứ Khoản 1 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công Ty Cổ Phần Đầu Tư HA đối với là Công ty TNHH Vật Liệu Xây Dựng MKX.
Tuyên bố:
- Buộc Công ty TNHH Vật Liệu Xây Dựng MKX phải trả cho nguyên đơn Công Ty Cổ Phần Đầu Tư HA tổng số tiền 153.369.299 đồng (Một trăm năm mươi ba triệu ba trăm sáu mươi chín nghìn hai trăm chín mươi chín đồng), trong đó:
- Tiền gốc là 125.000.000 đồng (Một trăm hai mươi lăm triệu đồng) - Lãi suất phát sinh do chậm thanh toán là 28.369.299 đồng (Hai mươi tám triệu ba trăm sáu mươi chín nghìn hai trăm chín mươi chín đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án), hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất qui định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.
2. Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Công ty TNHH Vật Liệu Xây Dựng MKX phải chịu 7.669.000 đồng (Bảy triệu sáu trăm sáu mươi chín nghìn đồng).
- Nguyên đơn được nhận lại số tiền 5.459.500 đồng (Năm triệu bốn trăm năm mươi chín nghìn năm trăm đồng) đã tạm ứng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0000949 ngày 25/8/2022 của Chi cục thi hành án quận N, thành phố C.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ khi tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 12/2023/KDTM-ST
Số hiệu: | 12/2023/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 25/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về