Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 09/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MY - TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 09/2023/DS-ST NGÀY 12/04/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 12/4/2023, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện MY, tỉnh Gia Lai mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 30/2022/TLST– DS, ngày 20/7/2022, về việc: “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2023/QĐST-DS, ngày 24/02/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2023/QĐST-DS, ngày 23/3/2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC.

Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn TC, sinh năm 1970 – Chủ đại lý Địa chỉ: Thôn L, xã Đ, huyện MY, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Bị đơn: Bà Phạm Thị T, sinh năm 1962.

Địa chỉ: Thôn L, xã Đ, huyện MY, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 29/6/2022, bản tự khai và tại phiên tòa, đại diện theo pháp luật của nguyên đơn ông Nguyễn TC trình bày:

“Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC có cung cấp số lượng phân bón cho bà Phạm Thị T. Tính đến ngày 15/12/2020 hai bên chốt nợ bà Phạm Thị T còn nợ số tiền mua phân bón là 59.490.000 đồng (theo Giấy xác nhận nợ mua phân bón ngày 15/12/2020) và tiền lãi kể từ ngày 15/12/2020 đến ngày 31/5/2022 (là 17 tháng) (lãi suất là 1,4%/tháng) làm tròn là 14.000.000 đồng, tổng cộng: 73.490.000 đồng (bảy mươi ba triệu, bốn trăm chín mươi nghìn đồng).

Nay “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC yêu cầu bà Phạm Thị T phải trả dứt điểm khoản nợ trên (cả gốc và lãi) cho “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC tổng số tiền gốc và lãi là 73.490.000 đồng (bảy mươi ba triệu, bốn trăm chín mươi nghìn đồng) và không yêu cầu tính lãi phát sinh kể từ ngày 01/6/2022.

Bị đơn trong vụ án là bà Phạm Thị T:

Vắng mặt không có ý kiến trình bày.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện MY, tỉnh Gia Lai phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa. Tòa án nhân dân huyện MY, tỉnh Gia Lai. Thẩm phán Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về tố tụng. Việc niêm yết các văn bản tố tụng cho các đương sự đều được thực hiện đúng quy định nên việc xét xử vắng mặt đương sự là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 430, Điều 440, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đề nghị:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn: Buộc bị đơn bà Phạm Thị T phải có nghĩa vụ trả cho “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC số tiền 73.490.000 đồng (bảy mươi ba triệu, bốn trăm chín mươi nghìn đồng).

Buộc bà Phạm Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Trả lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn là bà Phạm Thị T có nơi cư trú tại địa chỉ: Thôn L, xã Đ, huyện MY, tỉnh Gia Lai. Căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1, Điều 35, điểm khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện MY.

[1.2] Về sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn bà Phạm Thị T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Việc bà Phạm Thị T vẫn có mặt tại địa phương nhưng không không hợp tác để giải quyết vụ án, việc vắng mặt tại Tòa án mà không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, để tiến hành giải quyết, xét xử vắng mặt bị đơn bà Phạm Thị T. Theo khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự “ Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”. Như vậy, bà Phạm Thị T phải chịu hậu quả về việc không đưa ra được và không đưa ra đủ chứng cứ để bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

[2]. Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả số tiền đã mua phân còn nợ tổng cộng là 73.490.000 đồng (bảy mươi ba triệu, bốn trăm chín mươi nghìn đồng). Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp là Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa (mua bán phân bón) theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3]. Về nội dung vụ án: Theo tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC có cung cấp số lượng phân bón cho bà Phạm Thị T chốt nợ tính đến ngày 15/12/2020, bà Phạm Thị T còn nợ số tiền mua phân bón là 59.490.000 đồng (theo Giấy xác nhận nợ mua phân bón ngày 15/12/2020) và tiền lãi kể từ ngày 15/12/2020 đến ngày 31/5/2022 (là 17 tháng) (lãi suất là 1,4%/tháng) làm tròn là 14.000.000 đồng, tổng cộng: 73.490.000 đồng (bảy mươi ba triệu, bốn trăm chín mươi nghìn đồng).

“Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC khởi kiện buộc bà Phạm Thị T phải trả cho 1 lần đủ số 73.490.000 đồng (bảy mươi ba triệu, bốn trăm chín mươi nghìn đồng) và không yêu cầu tính lãi phát sinh kể từ ngày 01/6/2022.

Xét yêu cầu của “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC thì thấy rằng: Giao dịch dân sự về việc mua bán phân bón giữa “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC với bà Phạm Thị T được xác lập trên cơ sở tự nguyện thoả thuận giữa hai bên, không vi phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội vì vậy giao dịch này là hợp pháp và các bên phải có nghĩa vụ tôn trọng cũng như thực hiện đúng những thoả thuận, cam kết khi xác lập giao dịch. “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC đã thực hiện nghĩa vụ giao đủ số lượng phân bón cho bà T nhưng bà T lại không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả đủ tiền theo thoả thuận cho “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC. Hàng hóa là phân bón là đối tượng được phép lưu thông trên thị trường. Các bên đã thực hiện việc mua bán, giao nhận hàng hóa và thanh toán cho nhau một phần và còn nợ lại một phần chưa thanh toán. Như vậy, bà T đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ mà mình đã cam kết và “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà T phải trả số tiền còn nợ đã mua phân là có căn cứ.

Xét giao dịch giữa “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC với bà T được giao kết trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện giữa các bên, phù hợp với các quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa được quy định tại Điều 430 của Bộ luật dân sự nên có hiệu lực pháp luật.

Điều 430 của Bộ luật dân sự quy định: “Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán”.

Tại khoản 1 Điều 440 của Bộ luật dân sự quy định: “Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền theo thời hạn, địa điểm và mức tiền được quy định trong hợp đồng”.

Theo Giấy xác nhận nợ mua phân bón mà “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC cung cấp chốt nợ 15/12/2020, bà Phạm Thị T còn nợ số tiền mua phân bón là 59.490.000 đồng và tiền lãi làm tròn là 14.000.000 đồng, làm tròn tổng cộng: 73.490.000 đồng (bảy mươi ba triệu, bốn trăm chín mươi nghìn đồng), số tiền này đã được “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC trình bày trong đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên toà.

Bà Phạm Thị T phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền nợ tiền đã mua phân bón cho “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC như đã thoả thuận theo quy định của pháp luật.

[4] Xét về lãi suất: “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC yêu cầu tính lãi suất theo thỏa thuận là 1,4%/tháng từ ngày 15/12/2020 đến ngày 31/5/2022 là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC không yêu cầu tính lãi suất kể từ ngày 01/6/2022, đây là sự tự nguyện và phù hợp quy định của pháp luật.

[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Yêu cầu của “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC được chấp nhận nên bà Phạm Thị T phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm là: 73.490.000 x 5% = 3.674.500 đồng. “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp.

[6] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về giải quyết nội dung vụ án là phù hợp quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng việc chấp nhận yêu cầu của “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC về việc buộc bà Phạm Thị T phải trả số tiền 73.490.000 đồng (bảy mươi ba triệu, bốn trăm chín mươi nghìn đồng) là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng các Điều 429, 430, 431, 432, 433, 434 và 440 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC.

- Buộc bà Phạm Thị T phải trả cho “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC số tiền gốc là 59.490.000 đồng và tiền lãi là 14.000.000 đồng, tổng cộng: 73.490.000 đồng (Bảy mươi ba triệu, bốn trăm chín mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

2.Về án phí:

+ Buộc bà Phạm Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 3.674.500 đồng (Ba triệu, sáu trăm bảy mươi bốn nghìn, năm trăm đồng).

+ “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC không phải chịu án phí sơ thẩm; hoàn trả lại cho “Hộ kinh doanh” cơ sở kinh doanh hàng nông sản và phân bón TC số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm là 1.865.000 đồng (Một triệu, tám trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng phí, lệ phí Tòa án số 0010722, ngày 15/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện MY, tỉnh Gia Lai.

3. Về quyền khánh cáo: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo tính kể từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 09/2023/DS-ST

Số hiệu:09/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mang Yang - Gia Lai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về