Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 09/2022/KDTM-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 09/2022/KDTM-ST NGÀY 16/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 16 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 06/2022/TLST-KDTM ngày 03 tháng 3 năm 2022 về việc tranh chấp “Hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2022/QĐXXST-KDTM ngày 06 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2022/QĐST-KDTM ngày 27/7/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty TNHH P.

Địa chỉ trụ sở: Lô số 36, đường số 11, KCN Đ, xã H, huyện Đ, tỉnh Long an. Người đại diện theo pháp luật: Ông Nhan Hiến H – chức vụ: Giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền: Anh Nguyễn Minh L – PL Nhân sự. (có mặt)

- Bị đơn: Công ty TNHH Y. (vắng mặt) Địa chỉ trụ sở: Tờ bản đồ số 26, ấp 5, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An. Người đại diện theo pháp luật: Ông WAN HAO X

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 28 tháng 02 năm 2022, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn anh Nguyễn Minh L trình bày: Công ty TNHH P và công ty TNHH Y có ký kết Hợp đồng kinh tế số 01/2021PTH/YM ngày 01/01/2021, theo đó công ty TNHH P có trách nhiệm cung cấp thùng giấy carton theo đơn đặt hàng của công ty TNHH Y; và công ty TNHH Y có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng hóa cho công ty TNHH P.

Thự hiện hợp đồng, công ty TNHH P đã giao hàng hóa đầy đủ và đúng chất lượng theo các đơn đặt hàng của công ty TNHH Y.

Sau một thời gian mua bán với nhau, ngày 26/02/2022, hai bên công ty lập Biên bản đối chiếu xác nhận công nợ, cụ thể số công nợ công ty TNHH Y nợ công ty TNHH P là 473.701.394 đồng; theo các hóa đơn gồm:

- Hóa đơn số 1580 ngày 26/6/2021;

- Hóa đơn số 1729 ngày 24/7/2021;

- Hóa đơn số 2077 ngày 29/10/2021;

- Hóa đơn số 2194 ngày 26/11/2021;

- Hóa đơn số 2592 ngày 26/02/2022.

Tuy nhiên đến nay, công ty TNHH Y vẫn chưa thanh toán cho công ty TNHH P số tiền trên. Do đó, công ty TNHH P khởi kiện yêu cầu công ty TNHH Y trả số tiền hàng chưa thanh toán là 473.701.394 đồng và không yêu cầu lãi suất do chậm thanh toán.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng bị đơn công ty TNHH Y vẫn vắng mặt, cũng không có văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An:

- Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử vụ án, những người tiến hành tố tụng và nguyên đơn đã tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng bị đơn đã không thực hiện đúng các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, thấy rằng giữa nguyên đơn và bị đơn có tồn tại giao dịch mua bán hàng hóa là thùng giấy carton và bị đơn đã không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cần thiết cho bị đơn nhưng bị đơn vẫn vắng mặt và không có ý kiến phản hồi. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 440, 357 Bộ luật Dân sự 2015, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xứ nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Tại công văn số 210/SKHĐT-KTĐN ngày 21/6/2022 của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Long An xác nhận công ty TNHH Y không hoạt động tại trụ sở đã đăng ký, kết quả xác minh tại địa phương cũng xác định trên địa bàn ấp 5, xã Đ không có công ty TNHH Y đang hoạt động. Tuy nhiên trụ sở chính của công ty vẫn thuộc ấp 5, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An, không có sự thay đổi về địa chỉ trụ sở; đồng thời đây là địa chỉ được ghi trong hợp đồng kinh tế giữa hai bên; quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, phía nguyên đơn cũng có lời trình bày không được thông báo và không biết việc bị đơn có thay đổi địa chỉ hoạt động hay không. Do đó, căn cứ điểm e, khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.

Quan hệ tranh chấp là Hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng được hai bên ký kết nhằm mục đích lợi nhuận và hai bên đều có đăng ký kinh doanh, do đó thuộc tranh chấp về kinh doanh thương mại, được quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại mục 5.2 Điều 5 của Hợp đồng kinh tế, hai bên thỏa thuận nếu có tranh chấp không thể thương lượng được thì sẽ đưa ra “Tòa án bên A" (tức Tòa án bên công ty TNHH Y) có thẩm quyền giải quyết.

Xét thấy, bị đơn công ty TNHH Y có trụ sở tại địa chỉ: ấp 5, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An (được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Long An xác nhận tại công văn số 210/SKHĐT-KTĐN ngày 21/6/2022) nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bị đơn công ty TNHH Y đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2]. Về yêu cầu khởi kiện:

[2.1]. Căn cứ vào Hợp đồng kinh tế số 01/2021PTH/YM ngày 01/01/2021 và các Đơn đặt hàng do nguyên đơn cung cấp thấy rằng giữa công ty TNHH P và công ty TNHH Y có tồn tại giao dịch mua bán hàng hóa là thùng carton và công ty TNHH P đã cung cấp hàng đúng theo yêu cầu của công ty TNHH Y nhưng công ty TNHH Y vi phạm nghĩa vụ thanh toán cho công ty TNHH P.

Căn cứ vào Bảng đối chiếu công nợ ngày 26/02/2022 do công ty TNHH P cung cấp, đối chiếu với Bảng đối chiếu công nợ ngày 30/11/2021 và công văn số 01/2021 ngày 03/01/2022 (có chữ ký và xác nhận đóng dấu của công ty TNHH Y) thấy rằng tổng số tiền hàng hóa mà công ty TNHH Y còn nợ công ty TNHH P là 473.701.394 đồng. Bị đơn công ty TNHH Y không có ý kiến phản hồi về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền hàng hóa là 473.701.394 đồng là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 50 Luật Thương mại năm 2005.

Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An về việc chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ.

[3]. Về lãi suất:

Nguyên đơn công ty TNHH P không yêu cầu trả lãi suất do chậm thanh toán nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về án phí: Công ty TNHH Y phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 50, 306 Luật thương mại năm 2005;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH P đối với Công ty TNHH Y về việc tranh chấp “Hợp đồng cung cấp vật liệu”.

- Buộc Công ty TNHH Y có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH P số tiền 473.701.394 đồng – Bốn trăm bảy mươi ba triệu bảy trăm lẻ một ngàn ba trăm chín mươi bốn đồng.

Khi án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong số tiền trên, bên có nghĩa vụ chậm thi hành sẽ phải chịu thêm khoản tiền lãi tính trên số tiền chậm trả theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005.

2. Về án phí: Buộc Công ty TNHH Y nộp 22.948.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước.

Hoàn lại cho Công ty TNHH P số tiền 11.474.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0009806 ngày 28 tháng 02 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 09/2022/KDTM-ST

Số hiệu:09/2022/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành:16/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về