TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 09/2022/KDTM-ST NGÀY 19/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Ngày 19 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý số 79/2021/TLST-KDTM ngày 22 tháng 12 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2022/QĐXXST-KDTM ngày 21 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn X.
Địa chỉ: đường P, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Bạch T – Giám đốc. (Có mặt)
2. Bị đơn: Công ty cổ phần xây dựng và đầu tư V.
Địa chỉ: đường L, quận H, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trịnh Anh T (Giấy ủy quyền ngày 18/5/2022) (Có mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn B – Giám đốc xí nghiệp 103 – công ty TNHH MTV ĐTXD V (nay là Công ty cổ phần xây dựng và đầu tư V) (Vắng mặt) Địa chỉ làm việc: đường P, phường Đ, thành phố K, tỉnh Gia Lai. Địa chỉ nhà: đường G, phường A, quận L, thành phố Đà Nẵng
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, theo lời trình bày của người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, nội dung vụ án như sau:
Công ty Trách nhiệm hữu hạn X và Công ty cổ phần xây dựng và đầu tư V (trước đây là công ty TNHH MTV Đầu tư xây dựng V) có ký kết Hợp đồng mua bán xăng dầu số 002/2018/HĐMB/VANXUAN-VANTUONG, ngày 02.01.2018. Quá trình thực hiện hợp đồng, công ty Trách nhiệm hữu hạn X đã thực hiện theo đúng thỏa thuận tại hợp đồng về việc cung cấp xăng dầu cho Công ty cổ phần xây dựng và đầu tư V. Ngày 31/01/2019, công ty Trách nhiệm hữu hạn X và Xí nghiệp 103 - công ty TNHH MTV ĐTXD V đã tiến hành đối chiếu công nợ, xác định Công ty cổ phần xây dựng và đầu tư V còn phải thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn X số tiền 134.143.800 đồng. Nguyên đơn đã nhiều lần liên lạc với bị đơn để yêu cầu thanh toán số tiền còn nợ nhưng bị đơn không trả. Nay, Công ty Trách nhiệm hữu hạn X khởi kiện, yêu cầu Tòa án buộc Công ty cổ phần xây dựng và đầu tư V phải thanh toán số tiền 134.143.800 đồng.
Tại phiên hòa giải ngày 28/01/2022, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là ông Nguyễn Trung N trình bày: Qua đối chiếu sổ sách chứng từ, bị đơn nhận thấy có sự không trùng khớp như sau: Ngày nhập chứng từ là các ngày 31/5/2018 và 31/01/2019 nhưng đều cùng một số hóa đơn 4645 xuất ngày 05/7/2018 (được ghi chú thay thế hóa đơn 4623 ngày 05/5/2018). Các chứng từ còn lại bị đơn đều thống nhất với nguyên đơn, yêu cầu nguyên đơn làm rõ sự không trùng khớp nêu trên để có số công nợ chính xác, thì công ty cổ phần xây dựng và đầu tư V sẽ thanh toán nợ.
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là ông Trịnh Anh T trình bày: Do công ty cổ phần xây dựng và đầu tư V chưa nhận bàn giao hồ sơ công nợ từ công ty TNHH MTV Đầu tư xây dựng V nên không nắm rõ về công nợ. Đề nghị Tòa án căn cứ theo tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết vụ án. Trường hợp có nợ công ty sẽ trả.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn B, tuy nhiên ôn B vẫn vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đồng thời không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt đến lần thứ hai.
Đại diện viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Tòa án đã thực hiện đúng, đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đại diện theo pháp luật của nguyên đơn, đại diện theo ủy quyền của bị đơn đã thực hiện đúng và đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu Tòa án buộc Công ty cổ phần xây dựng và đầu tư V trả số tiền 134.143.800 đồng là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là Công ty cổ phần xây dựng và đầu tư V có trụ sở tại 174 Lê Đình Lý, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, do đó tranh chấp hợp đồng kinh tế giữa nguyên đơn và bị đơn thuộc thẩm quyền giải quyết sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Hải Châu theo quy định tại khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự
[2] Quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt đến lần thứ hai, do đó HĐXX áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[3] Về nội dung tranh chấp: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy: Công ty Trách nhiệm hữu hạn X và Công ty cổ phần xây dựng và đầu tư V (trước đây là công ty TNHH MTV Đầu tư xây dựng V) có ký kết Hợp đồng mua bán xăng dầu số 002/2018/HĐMB/VANXUAN-VANTUONG, ngày 02.01.2018. Hợp đồng này thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự năm 2015 nên có hiệu lực pháp luật, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên, buộc các bên tham gia giao dịch phải tuân thủ thực hiện.
Quá trình thực hiện hợp đồng, công ty Trách nhiệm hữu hạn X đã cung cấp xăng dầu cho công ty cổ phần xây dựng và đầu tư V theo đúng thỏa thuận tại hợp đồng về số lượng, chất lượng, phương thức giao nhận. Ngày 31/01/2019, các bên đã tiến hành đối chiếu công nợ, xác nhận công ty cổ phần xây dựng và đầu tư V chưa thanh toán cho công ty Trách nhiệm hữu hạn X số tiền mua hàng 134.143.800 đồng. Mặc dù nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu thanh toán nhưng bị đơn vẫn không thực hiện. HĐXX nhận thấy bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận tại Điều 5 Hợp đồng mua bán xăng dầu số 002/2018/HĐMB/VANXUAN-VANTUONG, ngày 02.01.2018, do đó yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với số nợ gốc là có căn cứ và cần được chấp nhận.
Đối với trình bày của bị đơn về sự không trùng khớp trong ghi chép sổ sách chứng từ được lưu ở phía bị đơn, cụ thể: Ngày nhập chứng từ là các ngày 31/5/2018 và 31/01/2019 nhưng đều cùng một số hóa đơn 4645 xuất ngày 05/7/2018 (được ghi chú thay thế hóa đơn 4623 ngày 05/5/2018). Dẫn đến số liệu dầu đã nhận bị chênh lệch 15.000 lít dầu. Nguyên đơn cho rằng sự không trùng khớp này là do nhầm lẫn trong ghi chép từ phía bị đơn. Trên thực tế, 15.000 lít dầu này phía bị đơn đã nhận theo hóa đơn số 680, xuất hóa đơn ngày 24/10/2018. Số lượng dầu xuất theo hóa đơn 680 không được thể hiện trong ghi chép sổ sách phía bị đơn, nhưng hóa đơn 4645 (cùng lượng dầu 15.000 lít) lại được nhập chứng từ đến 2 lần vào các ngày 31/5/2018 và 31/01/2019. Như vậy, tổng lượng dầu bị đơn đã nhận từ nguyên đơn là không thay đổi. HĐXX nhận thấy, nguyên đơn đã cung cấp được hóa đơn gốc số 680 ngày 24/10/2018, trình bày của nguyên đơn phù hợp với chứng cứ, do đó cần chấp nhận.
[4] Án phí Kinh doanh thương mại sơ thẩm bị đơn là công ty cổ phần xây dựng và đầu tư V phải chịu. Hoàn trả cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điều 227, 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
- Điều 50 Luật thương mại.
- Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của công ty Trách nhiệm hữu hạn X đối với công ty cổ phần xây dựng và đầu tư V.
Xử:
1. Buộc công ty cổ phần xây dựng và đầu tư V phải trả cho công ty Trách nhiệm hữu hạn X số tiền 134.143.800 đồng (Một trăm ba mươi tư triệu một trăm bốn mươi ba ngàn tám trăm đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
2. Án phí Kinh doanh thương mại sơ thẩm: 6.707.190 đồng (Sáu triệu bảy trăm lẻ bảy ngàn một trăm chín mươi đồng) công ty cổ phần xây dựng và đầu tư V phải chịu. Hoàn trả cho công ty Trách nhiệm hữu hạn X 3.353.595 đồng (bằng chữ: Ba triệu ba trăm năm mươi ba ngàn năm trăm chín mươi lăm đồng) tiền tạm ứng án phí Kinh doanh thương mại đã nộp theo biên lai thu số 0000582 ngày 22/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
3. Án xử công khai sơ thẩm, các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) bản án.
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 09/2022/KDTM-ST
Số hiệu: | 09/2022/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 19/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về