TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 09/2020/KDTM-PT NGÀY 20/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Trong ngày 20 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại phúc thẩm thụ lý số 08/TLPT-KDTM ngày 17/7/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa.Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2020/KDTM-ST ngày 11/6/2020 của Toà án nhân dân huyện Châu Thành bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 08/2020/QĐ-PT ngày 27 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH S. Địa chỉ: Ấp C, xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Bà Lê Hoàng Diễm M, sinh năm 1995. Địa chỉ: Công ty Luật TNHH L, phòng 702, lầu 7, toà nhà Khang Thông, số 67, đường N, phường B, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (theo văn bản ủy quyền 03/4/2019).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Bá H, thuộc Công ty Luật TNHH L, Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Y, sinh năm 1964. Địa chỉ: Số nhà 211/7, ấp 7, xã V, huyện C, tỉnh Long An.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1956. Địa chỉ: Số nhà 580, khu phố B, phường 4, thành phố T, tỉnh Long An.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn Công ty TNHH S.
(Bà M, ông Y, ông H có mặt, bà Nguyễn Thị B vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 03/4/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty TNHH S do bà Lê Hoàng Diễm M là đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ngày 01/4/2006 Công ty TNHH S, (sau đây gọi là NGUYÊN ĐƠN) có ký hợp đồng đại lý với bà Nguyễn Thị B để bà B làm đại lý cấp 1 của NGUYÊN ĐƠN chuyên bán các mặt hàng thức ăn gia súc do NGUYÊN ĐƠN sản xuất. Từ ngày 02/4/2006 đến ngày 17/4/2008 NGUYÊN ĐƠN thực hiện việc bán hàng và xuất hóa đơn cho bà B theo Hợp đồng đại lý hai bên đã ký kết ngày 01/4/2006.
Ngày 24/7/2008 theo yêu cầu của bà B và ông Nguyễn Văn Y - là em ruột của bà B (sau đây gọi là BỊ ĐƠN), NGUYÊN ĐƠN đã sang tên đại lý từ bà B sang tên BỊ ĐƠN. BỊ ĐƠN đã tiếp nhận số nợ của bà B chuyển sang phải thanh toán cho NGUYÊN ĐƠN số tiền 349.996.962 đồng. BỊ ĐƠN đã thanh toán số nợ cho NGUYÊN ĐƠN và tiếp tục thực hiện các hoạt động mua bán thức ăn gia súc với NGUYÊN ĐƠN. Từ ngày 31/12/2009 đến ngày 02/01/2015 BỊ ĐƠN mua bán với NGUYÊN ĐƠN với tổng số tiền 21.056.859.507 đồng, đã thanh toán được 19.556.712.302 đồng, còn nợ lại số tiền vốn là 1.500.147.205 đồng. Mặc dù NGUYÊN ĐƠN đã nhiều lần yêu cầu thanh toán nợ nhưng đến nay BỊ ĐƠN vẫn không thực hiện.
Nay NGUYÊN ĐƠN yêu cầu BỊ ĐƠN phải trả số tiền nợ vốn mua thức ăn chăn nuôi là 1.500.147.205 đồng và tiền lãi chậm trả, theo bảng kê công nợ và nợ lãi tính đến ngày 11/6/2020 là 1.360.362.514 đồng, tổng cộng vốn lãi là 2.860.509.719 đồng và tiếp tục tính lãi đến khi trả hết nợ. Trường hợp BỊ ĐƠN không thanh toán nợ cho NGUYÊN ĐƠN thì yêu cầu phát mãi tài sản đã thế chấp là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, số AG 144720 do Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp cho BỊ ĐƠN ngày 03/8/2006, thửa đất số 104, tờ bản đồ số 3, diện tích 198,5 m2, loại đất ở nông thôn, tọa lạc tại số 211/7 ấp 7, xã Vĩnh Công, huyện Châu Thành, tỉnh Long An.
BỊ ĐƠN trình bày: Sau khi tiếp nhận đại lý từ bà Nguyễn Thị B qua, BỊ ĐƠN đã thanh toán xong số nợ từ bà B chuyển sang và tiếp tục mua bán với NGUYÊN ĐƠN. Trong quá trình mua bán, giữa BỊ ĐƠN và NGUYÊN ĐƠN không có lập hợp đồng mua bán hàng hóa nên BỊ ĐƠN phải thanh toán trực tiếp theo từng chuyến hàng tại trạm trung chuyển của NGUYÊN ĐƠN ở huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Tất cả các giao dịch về mua bán thức ăn chăn nuôi, thanh toán tiền đều thông qua trạm trung chuyển, không có liên hệ gì với NGUYÊN ĐƠN. Mỗi lần mua hàng BỊ ĐƠN phải trả tiền trước thì kế toán trạm mới xuất hóa đơn và giao hàng, không có việc nhận hàng mà chưa thanh toán tiền nên NGUYÊN ĐƠN cho rằng BỊ ĐƠN còn nợ tiền mua hàng là không đúng, những chữ ký trong các hóa đơn mà NGUYÊN ĐƠN cung cấp không phải là chữ ký của BỊ ĐƠN.
Trong quá trình mua bán giữa NGUYÊN ĐƠN với bà B, ngày 29/01/2007 NGUYÊN ĐƠN và bà B có yêu cầu BỊ ĐƠN làm giấy ủy quyền cho bà B liên hệ thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, số AG 144720 do Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp cho BỊ ĐƠN ngày 03/8/2006, thửa đất số 104, tờ bản đồ số 3, diện tích 198,5 m2, loại đất ở nông thôn, tọa lạc tại số 211/7 ấp 7, xã Vĩnh Công, huyện Châu Thành, tỉnh Long An. Sau khi BỊ ĐƠN thanh toán phần nợ của bà B xong, có yêu cầu NGUYÊN ĐƠN trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng NGUYÊN ĐƠN không trả. Nay BỊ ĐƠN yêu cầu NGUYÊN ĐƠN trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị B vắng mặt không có lời trình bày.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2020/KDTM-ST ngày 11/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã quyết định:
Áp dụng các Điều 30, 35, 39, 227 và 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;các Điều 50, 51, 55 Luật Thương mại năm 2005;các Điều 3, Điều 6, khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa của Công ty TNHH S đối với ông Nguyễn Văn Y về số nợ vốn mua bán là 1.500.147.205 đồng và tiền lãi chậm trả, tính đến ngày 11/6/2020 là 1.360.362.514 đồng, tổng cộng vốn lãi là 2.860.509.719 đồng.
2. Buộc Công ty TNHH S phải hoàn trả cho ông Nguyễn Văn Y bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, số AG 144720 do Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp ngày 03/8/2006, thửa đất số 104, tờ bản đồ số 3, diện tích 198,5 m2, loại đất ở nông thôn, tọa lạc tại số 211/7 ấp 7, xã Vĩnh Công, huyện Châu Thành, tỉnh Long An, do ông Nguyễn Văn Y đứng tên quyền sử dụng đất.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí giám định, chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, án phí, quyền kháng cáo và việc thi hành án theo quy định của pháp luật.
Ngày 29/6/2020, NGUYÊN ĐƠN nộp đơn kháng cáo. Ngày 02/7/2020 NGUYÊN ĐƠN nộp tạm ứng án phí phúc thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bà Lê Hoàng Diễm M là đại diện theo ủy quyền của NGUYÊN ĐƠN và Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NGUYÊN ĐƠN - Luật sư Nguyễn Bá H trình bày: NGUYÊN ĐƠN rút một phần yêu cầu khởi kiện về tính lãi do hết thời hiệu khởi kiện, chỉ kháng cáo yêu cầu BỊ ĐƠN thanh toán nợ gốc vì BỊ ĐƠN đã nhận đủ chiết khấu hoa hồng trên số lượng hàng hóa đã mua, từ đó chứng minh BỊ ĐƠN có mua và còn nợ tiền. NGUYÊN ĐƠN không đồng ý trả lại GCNQSDĐ cho BỊ ĐƠN vì bà B là người trực tiếp giao giấy cho NGUYÊN ĐƠN và BỊ ĐƠN không nộp tạm ứng án phí để đòi NGUYÊN ĐƠN trả lại GCNQSDĐ. Trường hợp BỊ ĐƠN không trả nợ thì yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp.
BỊ ĐƠN trình bày: Việc thanh toán tiền mua thức ăn gia súc bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản, nhưng mỗi lần mua hàng đều phải thanh toán trước thì mới được nhận hàng. Việc hoàn thiện sổ sách chứng từ do nhân viên của NGUYÊN ĐƠN thực hiện, BỊ ĐƠN không biết và không ký tên trên bất cứ chứng từ nào. BỊ ĐƠN không đồng ý việc rút yêu cầu khởi kiện đòi tính lãi của NGUYÊN ĐƠN và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Kháng cáo của NGUYÊN ĐƠN trong thời hạn luật định, đủ điều kiện để xem xét theo trình tự phúc thẩm. BỊ ĐƠN không đồng ý việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của NGUYÊN ĐƠN tại phiên tòa phúc thẩm nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của NGUYÊN ĐƠN.
Về nội dung kháng cáo:
NGUYÊN ĐƠN kháng cáo yêu cầu BỊ ĐƠN thanh toán số nợ vốn mua thức ăn gia súc là 1.500.147.205 đồng và tiền lãi chậm trả đến ngày 11/6/2020 là 1.360.362.514 đồng và tiếp tục tính lãi đến khi BỊ ĐƠN trả hết nợ; yêu cầu xử lý tài sản thế chấp. Tuy nhiên, kết quả giám định cho thấy BỊ ĐƠN không ký tên trên các hóa đơn do NGUYÊN ĐƠN cung cấp. NGUYÊN ĐƠN không cung cấp được chứng cứ gì để chứng minh BỊ ĐƠN có nợ. Việc thế chấp GCNQSDĐ do BỊ ĐƠN đứng tên là không đúng quy định của pháp luật và yêu cầu khởi kiện của NGUYÊN ĐƠN cũng không có căn cứ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, bác toàn bộ kháng cáo của NGUYÊN ĐƠN, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Về tố tụng:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Kháng cáo của NGUYÊN ĐƠN là đúng luật theo quy định tại các Điều 271, 272, 273 và Điều 276 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên được chấp nhận.
[2] NGUYÊN ĐƠN rút một phần yêu cầu khởi kiện về tính lãi do hết thời hiệu khởi kiện nhưng không được BỊ ĐƠN đồng ý. Căn cứ khoản 2 Điều 184, điểm a khoản 1 Điều 299 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận việc rút một phần đơn khởi kiện này của NGUYÊN ĐƠN.
[3] Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Vụ án được xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[4] Về việc xét xử vắng mặt các đương sự: Đương sự vắng mặt thuộc trường hợp quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự nên Tòa án vẫn xét xử phúc thẩm vụ án.
Về yêu cầu kháng cáo của NGUYÊN ĐƠN đòi BỊ ĐƠN thanh toán nợ gốc và lãi chậm trả khi mua thức ăn gia súc do NGUYÊN ĐƠN sản xuất:
[5] Ngày 24/7/2008, NGUYÊN ĐƠN chuyển đổi tên đại lý từ bà B sang tên BỊ ĐƠN, BỊ ĐƠN tiếp nhận số tiền nợ của bà B chuyển sang là 349.996.962 đồng. Ngày 29/01/2007 BỊ ĐƠN làm giấy ủy quyền cho bà B thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, số AG 144720 do Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp cho BỊ ĐƠN vào ngày 03/8/2006, thửa đất số 104, tờ bản đồ số 3, diện tích 198,5m2, loại đất ở nông thôn, tọa lạc tại số 211/7 ấp 7, xã Vĩnh Công, huyện Châu Thành, tỉnh Long An cho NGUYÊN ĐƠN. BỊ ĐƠN đã thanh toán cho NGUYÊN ĐƠN đủ số tiền nợ của bà B. Đây là những tình tiết không phải chứng minh.
[6] NGUYÊN ĐƠN cho rằng từ ngày 31/12/2009 đến ngày 02/01/2015 BỊ ĐƠN mua thức ăn gia súc do NGUYÊN ĐƠN sản xuất với tổng số tiền 21.056.859.507 đồng, đã thanh toán 19.556.712.302 đồng, còn nợ lại số tiền vốn là 1.500.147.205 đồng. Chứng cứ NGUYÊN ĐƠN cung cấp là các hóa đơn giá trị gia tăng có chữ ký và chữ viết của BỊ ĐƠN.
[7] BỊ ĐƠN xác định mỗi lần mua hàng đều thanh toán trước khi nhận hàng. Việc hoàn thiện sổ sách chứng từ kế toán do nhân viên của NGUYÊN ĐƠN thực hiện, những chữ ký trong các hóa đơn mà NGUYÊN ĐƠN cung cấp không phải là chữ ký của BỊ ĐƠN. Trình bày này của BỊ ĐƠN là có căn cứ, phù hợp với kết quả giám định tại bản Kết luận giám định số 580/2019/KLGĐ ngày 08 tháng 11 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An đã kết luận: Chữ ký và chữ viết Nguyễn Văn Y trong 03 tờ Hóa đơn giá trị gia tăng số 0000688 xuất ngày 30/11/2012 (Tài liệu số 1), Hóa đơn giá trị gia tăng số 0001461 xuất ngày 26/3/2014 (Tài liệu số 2) và Hóa đơn giá trị gia tăng số 0001493 xuất ngày 21/4/2014 (Tài liệu số 3) với chữ ký và chữ viết Nguyễn Văn Y trong 05 tài liệu mẫu so sánh là không phải do cùng một người ký và viết ra.
[8] NGUYÊN ĐƠN không yêu cầu giám định chữ ký và chữ viết mang tên Nguyễn Văn Y trong các hóa đơn giá trị gia tăng còn lại. NGUYÊN ĐƠN cũng không cung cấp được bảng quyết toán công nợ có chữ ký nhận nợ của BỊ ĐƠN. NGUYÊN ĐƠN kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ gì mới nên không có căn cứ để được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về kháng cáo của NGUYÊN ĐƠN về tài sản thế chấp:
[9] Các đương sự xác định ngày 29/01/2007, NGUYÊN ĐƠN và bà B có yêu cầu BỊ ĐƠN làm giấy ủy quyền cho bà B để thế chấp cho NGUYÊN ĐƠN giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 144720 do UBND huyện Châu Thành cấp cho BỊ ĐƠN vào ngày 03/8/2006 đối với thửa đất số 104 tờ bản đồ số 3 xã Vĩnh Công, huyện Châu Thành. NGUYÊN ĐƠN trình bày mục đích giữ GCNQSDĐ của BỊ ĐƠN là để đảm bảo khả năng thanh toán tiền mua thức ăn gia súc của bà B và BỊ ĐƠN. Như vậy, việc giải quyết yêu cầu đòi lại GCNQSDĐ của BỊ ĐƠN trong cùng vụ án là cần thiết để giải quyết toàn diện, triệt để các vấn đề mà các đương sự đang tranh chấp. Xét thấy thủ tục thế chấp GCNQSDĐ giữa NGUYÊN ĐƠN và BỊ ĐƠN không đúng quy định tại Điều 130 Luật Đất đai năm 2003, đồng thời yêu cầu khởi kiện của NGUYÊN ĐƠN là không có căn cứ như mục [7], [8] đã nêu. Do đó, cần bác kháng cáo này của NGUYÊN ĐƠN.
nhận.
[10] Đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp
[11] Án phí kinh doanh thương phúc thẩm: NGUYÊN ĐƠN bị bác toàn bộ kháng cáo nên phải chịu 2.000.000 đồng.
[12] Những nội dung khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của Công ty TNHH S.
Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2020/KDTM- ST ngày 11 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành.
Áp dụng các Điều 30, 35, 39, 227 và 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 50, 51, 55 Luật Thương mại năm 2005; Điều 3, Điều 6, khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa của Công ty TNHH S đối với ông Nguyễn Văn Y về số nợ vốn mua bán là 1.500.147.205 đồng và tiền lãi chậm trả, tính đến ngày 11/6/2020 là 1.360.362.514 đồng, tổng cộng vốn lãi là 2.860.509.719đ (hai tỷ tám trăm sáu mươi triệu năm trăm lẻ chín ngàn bảy trăm mười chín đồng).
2. Buộc Công ty TNHH S phải hoàn trả cho ông Nguyễn Văn Y bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, số AG 144720 do Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp ngày 03/8/2006, thửa đất số 104, tờ bản đồ số 3, diện tích 198,5 m2, loại đất ở nông thôn, tọa lạc tại số 211/7 ấp 7, xã Vĩnh Công, huyện Châu Thành, tỉnh Long An, do ông Nguyễn Văn Y đứng tên quyền sử dụng đất.
3. Về chi phí giám định: Buộc Công ty TNHH S phải hoàn trả cho ông Nguyễn Văn Y số tiền 6.000.000 đồng.
4. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chổ: Buộc Công ty TNHH S phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chổ là 1.000.000 đồng (đã nộp xong).
5. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Công ty TNHH S phải chịu 89.210.194 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm, khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 42.157.982 đồng theo biên lai thu số 0002168 ngày 19 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành. Công ty TNHH S còn phải nộp tiếp số tiền 47.052.212 đồng.
6. Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Công ty TNHH S phải chịu 2.000.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.000.00 đồng, theo biên lai thu số 0000496 ngày 02 tháng 7 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành. Công ty TNHH S đã nộp đủ án phí phúc thẩm.
7. Về hướng dẫn thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
8. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án là ngày 20 tháng 8 năm 2020./.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 09/2020/KDTM-PT
Số hiệu: | 09/2020/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Long An |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 20/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về