Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 06/2023/KDTM-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NÚI THÀNH, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 06/2023/KDTM-ST NGÀY 25/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 25 tháng 9 năm 2023, tại: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 03/2023/TLST- KDTM ngày 20 tháng 4 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2023/QĐXXST - KDTM ngày 21 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty cổ phần M CL. Địa chỉ: Quốc lộ 1A, thôn Mỹ Sơn, xã N, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.

Người đại diện hợp pháp: Ông Phan Văn Th, chức vụ: Giám đốc. Có mặt

- Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại – dịch vụ - xây dựng BL.

Địa chỉ: đường Huỳnh Thúc Kháng, phường AX, thành phố T, tỉnh Quảng Nam.

Người đại diện hợp pháp: Bà Huỳnh Thị Cẩm H, chức vụ: Giám đốc. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 01/4/2023, cũng như các văn bản tố tụng khác trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của Công ty cổ phần M CL trình bày: Ngày 01/7/2021 giữa Công ty cổ phần M CL (Sau đây gọi tắt là Công ty M) và Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại – dịch vụ - xây dựng BL (Sau đây gọi tắt là Công ty BL) ký kết hợp đồng mua bán xăng dầu số 34/HĐMB-2021, theo thỏa thuận của hợp đồng thì Công ty M sẽ bán cho Công ty BL các sản phẩm xăng dầu; địa điểm giao hàng là Cửa hàng xăng dầu N 2 thuộc Quốc lộ 1A, xã N, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Ngoài ra hợp đồng còn thể hiện rõ các điều khoản về giá cả và phương thức thành toán v...v...Tuy nhiên, trong quá trình mua hàng hóa, Công ty BL đã nợ Công ty M tiền hàng nhưng chưa thanh toán. Căn cứ vào hồ sơ thanh toán và các hóa đơn giá trị gia tăng mà Công ty M đã xuất cho Công ty BL thì Công ty BL còn nợ số tiền là 126.020.000 đồng. Công ty M đã nhiều lần liên hệ với Công ty BL để yêu cầu thanh toán số tiền nợ nhưng Công ty BL vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả tiền mua hàng hóa. Vì vậy, Công ty M khởi kiện đến tòa án yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty BL phải trả số tiền nợ là 126.020.000 đồng. Trong quá trình khởi kiện tại Tòa án Công ty M có yêu cầu Công ty BL phải trả lãi chậm trả với số tiền là 9.522.000 đồng. Tại phiên tòa Công ty M rút lại yêu cầu trả lãi chậm trả, chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty BL trả số tiền nợ là 126.020.000 đồng.

Theo biên bản lấy lời khai 25/7/2023, người đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty BL trình bày: Vào ngày 01/7/2021 giữa Công ty M và Công ty Công ty BL ký kết hợp đồng mua bán xăng dầu số 34/HĐMB-2021, quá trình thực hiện hợp đồng mua bán xăng dầu thì Công ty BL còn nợ lại Công ty M số tiền hàng hóa là 126.020.000 đồng. Nay Công ty M khởi kiện tại Tòa án yêu cầu phải trả nợ là 126.020.000 đồng và lãi chậm trả thì Công ty BL đồng ý trả nợ 126.020.000 đồng nhưng với điều kiện là Công ty M phải rút đơn khởi kiện tại Tòa án, còn tiền lãi chậm trả thì Công ty BL không đồng ý thanh toán lãi chậm trả theo yêu cầu của nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Núi Thành phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án kể t khi thụ lý vụ án cho đến nay, Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định, đã tổ chức nhiều phiên hòa giải để các đương sự có thể tự thỏa thuận giải quyết vụ án nhưng đại diện hợp pháp của bị đơn không đến Tòa án là chấp hành pháp luật tố tụng không đúng. Tại phiên tòa, đại diện bị đơn vắng mặt lần thứ hai nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung: Ngày 01/7/2021 giữa Công ty M và Công ty BL ký kết hợp đồng mua bán xăng dầu số 34/HĐMB-2021, theo thỏa thuận của hợp đồng thì Công ty M sẽ bán cho Công ty BL các sản phẩm xăng dầu; địa điểm giao hàng là Cửa hàng xăng dầu N 2 thuộc Quốc lộ 1A, xã N, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Trong quá trình mua hàng hóa, Công ty BL đã nợ Công ty M số tiền là 126.020.000 đồng. Công ty BL th a nhận số tiền nợ này và đồng ý trả nợ. Do đó, xác định số tiền mua hàng hóa mà Công ty BL còn nợ là 126.020.000 đồng.

Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Núi Thành tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử, Căn cứ: Điều 30, Điều 35; Điều 40, Điều 147, Điều 244 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; Điều 24, Điều 50 của Luật thương mại; Điều 274, Điều 275, Điều 280 của Bộ luật Dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn số tiền là 126.020.000 đồng (Một trăm hai mươi sáu triệu, không trăm hai chục nghìn đồng).

Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty M về việc buộc bị đơn Công ty BL phải có nghĩa vụ trả tiền lãi chậm trả trên số tiền nợ. Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Công ty M khởi kiện Công ty BL có địa chỉ trụ sở tại số đường Huỳnh Thúc Kháng, phường AX, thành phố T, tỉnh Quảng Nam nhưng theo hợp đồng các bên ký kết thì nơi thực hiện hợp đồng là xã N, huyện Núi Thành nên Công ty M có đơn lựa chọn Tòa án giải quyết là Tòa án nhân dân huyện Núi Thành. Do đó, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm g khoản 1 Điều 40 Bộ luật tố tụng Dân sự, Tòa án nhân dân huyện Núi Thành thụ lý, giải quyết vụ án là đúng theo quy định của pháp luật.

[1.2] Về quan hệ pháp luật: Công ty M khởi kiện Công ty BL yêu cầu thanh toán tiền nợ hàng hóa xuất phát t hợp đồng mua bán xăng dầu giữa các bên nên quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[1.3] Tại phiên tòa vắng mặt người đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty BL nhưng đây là lần triệu tập thứ hai. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đại diện hợp pháp Công ty BL.

[1.4] Tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện về buộc bị đơn phải có nghĩa vụ trả lãi chậm trả. Hội đồng xét xử nhận định việc rút một phần yêu cầu này là tự nguyện nên căn cứ vào Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự đình chỉ một phần yêu cầu độc lập của Công ty M.

[2]. Về nội dung giải quyết tranh chấp: Ngày 01/7/2021 giữa Công ty M và Công ty BL ký kết hợp đồng mua bán xăng dầu số 34/HĐMB-2021, theo thỏa thuận của hợp đồng thì Công ty M sẽ bán cho Công ty BL các sản phẩm xăng dầu; địa điểm giao hàng là Cửa hàng xăng dầu N 2 thuộc Quốc lộ 1A, xã N, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Ngoài ra hợp đồng còn thể hiện rõ các điều khoản về giá cả và phương thức thanh toán v...v...Tuy nhiên, trong quá trình mua hàng hóa, Công ty BL đã nợ Công ty M số tiền là 126.020.000 đồng. Công ty BL cũng th a nhận số tiền nợ này và đồng ý trả nợ nhưng với điều kiện là nguyên đơn phải rút đơn khởi kiện tại Tòa án. Hội đồng xét xử nhận định, quá trình giao kết hợp đồng giữa các bên là tự nguyện và hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ. Số tiền mua bán hàng hóa còn nợ lại các bên đều th a nhận là 126.020.000 đồng. Như vậy, theo quy định tại Điều 50 Luật thương mại; Điều 275, Điều 280 Bộ luật Dân sự thì Công ty BL phải có nghĩa vụ trả tiền mua hàng cho Công ty M với số tiền là 126.020.000 đồng.

[3]. Do yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn Công ty M được Tòa án chấp nhận một phần nên căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, bị đơn Công ty BL phải chịu án phí Kinh doanh thương mại sơ thẩm trên số tiền mà Hội đồng xét xử chấp nhận là 126.020.000 đồng tương ứng với số tiền án phí là 6.301.000 đồng (126.020.000 đồng x 5%).

Nguyên đơn Công ty M không phải chịu án phí Kinh doanh thương mại sơ thẩm nên được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 30, Điều 35; Điều 40, Điều 147, Điều 244 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; Điều 24, Điều 50 của Luật thương mại; Điều 274, Điều 275, Điều 280 của Bộ luật Dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần M CL đối với bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại – dịch vụ - xây dựng BL về việc buộc trả nợ tiền mua hàng hóa.

2. Buộc bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại – dịch vụ - xây dựng BL phải có nghĩa vụ trả cho Công ty cổ phần M CL số tiền là 126.020.000 đồng (Một trăm hai mươi sáu triệu, không trăm hai chục nghìn đồng).

Kể t ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần M CL về yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại – dịch vụ - xây dựng BL thanh toán lãi chậm trả.

4. Về án phí Kinh doanh thương mại sơ thẩm:

- Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại – dịch vụ - xây dựng BL phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 6.301.000 đồng ( Sáu triệu, ba trăm lẻ một nghìn đồng).

- Trả lại cho Công ty cổ phần M CL số tiền tạm ứng án phí đã nộp 3.388.500 đồng (Ba triệu, ba trăm tám tám nghìn, năm trăm đồng) theo biên lai thu số 0011705 ngày 20/4/2023 của Chi cục thi hành án Dân sự huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.

5. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể t ngày tuyên án (25/9/2023).

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể t ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

465
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 06/2023/KDTM-ST

Số hiệu:06/2023/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Núi Thành - Quảng Nam
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 25/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về