Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 04/2023/KDTM-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 04/2023/KDTM-ST NGÀY 31/10/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Trong ngày 31 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 03/2022/TLST-KDTM ngày 07/4/2022 về việc: “Tranh chấp Hợp đồng mua bán” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2023/QĐXXST- KDTM ngày 12/10/2023 và quyết định hoãn phiên tòa số: 07/2023/QĐST- KDTM ngày 23/10/2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty TNHH MTV M Trụ sở: Tổ 20, ấp L, xã P, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp.

Ngưi đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Bảo T, chức vụ: Giám đốc.

Ngưi đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng: Ông Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1973. Địa chỉ: Khóm Long An A, phường Long Phú, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang. Số điện thoại: 0886666X

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Cẩm Y, sinh năm 1954 - Chủ Hộ kinh doanh đại lý nông dược C (Cửa hàng Vật tư nông nghiệp C). Số Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh: 52K8001013.

Địa chỉ: Số 357/12, ấp P, thị trấn P, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Số điện thoại: 0983842X – 0386413X (Đại diện nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Công ty TNHH MTV M do ông Nguyễn Văn Tr là người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Công ty TNHH MTV M – tên viết tắt là MCB chuyên sản xuất phân bón. Từ ngày 17/11/2011, Công ty MCB có bán phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cho Hộ kinh doanh đại lý nông dược C – sau đây gọi tắt là Cửa hàng C do bà Nguyễn Thị Cẩm Y là chủ hộ. Hai bên không làm Hợp đồng bằng văn bản chỉ thỏa thuận miệng, cụ thể:

- Về cách thức giao hàng: Công ty MCB bán phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cho Cửa hàng C thành nhiều đợt, Công ty giao hàng qua cửa hàng của bà Y và có ra phiếu giao hàng cho bà Y ký nhận. Sau đó Cửa hàng C bán lẻ lại cho người dân để thu lợi nhuận.

- Về thời gian và phương thức thanh toán: Công ty sẽ cho Cửa hàng C nợ lại trong vòng 03 tháng mới thanh toán (theo vụ mùa của nông dân). Cuối năm Công ty sẽ xác nhận công nợ với khách hàng để xác nhận nợ báo cáo tài chính cuối năm.

- Hai bên không thỏa thuận lãi suất nếu xảy ra việc chậm trả nhưng có thỏa thuận nếu vi phạm nghĩa vụ trả nợ thì sẽ khởi kiện đến Tòa án.

Ngày 25/4/2019, công ty có ký Biên bản xác nhận công nợ với bà Nguyễn Thị Cẩm Y, theo đó bà Y xác nhận Cửa hàng C còn nợ lại Công ty MCB số tiền mua phân bón, thuốc bảo vệ thực vật là 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) và cam kết sẽ trả xong trong năm 2019. Sau nhiều lần thanh toán nhỏ lẻ được tổng số tiền là 6.000.000 đồng, bà Y không trả trả được số tiền nào nữa. Mặc dù, phía Công ty MCB nhiều lần liên lạc nhắc nhở việc trả nợ quá hạn cũng như tạo điều kiện cho phía Cửa hàng C trả nợ nhưng phía bà Y cố tình trốn tránh trách nhiệm trả nợ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Công ty. Hộ kinh doanh là loại hình doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân và cá nhân đăng ký là chủ hộ kinh doanh chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản cũng như về nghĩa vụ của Hộ kinh doanh. Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, phía Công ty MCB quyết định khởi kiện bà Nguyễn Thị Cẩm Y là chủ Hộ kinh doanh đại lý nông dược C.

Tại đơn khởi kiện ngày 23/3/2022 Công ty TNHH MTV M yêu cầu Toà án giải quyết buộc bà Nguyễn Thị Cẩm Y - Chủ Cửa hàng Vật tư nông nghiệp C phải thanh toán nợ cho Công ty tổng số tiền là 26.700.000 đồng (hai mươi sáu triệu, bảy trăm ngàn đồng), trong đó: nợ gốc là 24.000.000 đồng và nợ lãi tạm tính từ ngày 19/5/2021 đến ngày 19/02/2022 với lãi suất là 1,25%/tháng là 2.700.000 đồng, yêu cầu tiếp tục tính lãi suất phát sinh (1,25%/tháng) từ sau ngày 19/02/2022 cho đến khi kết thúc vụ án.

Ngày 15/6/2022 nguyên đơn xin thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện chỉ yêu cầu tính lãi suất là 0,83%/tháng đối với số tiền nợ gốc bị đơn còn nợ là 24.000.000 đồng tạm tính từ ngày 19/5/2021 đến khi giải quyết xong vụ án.

Ngày 10/10/2023 và tại phiên tòa, ông Nguyễn Văn Tr đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chủ Hộ kinh doanh đại lý nông dược C là bà Nguyễn Thị Cẩm Y phải có nghĩa vụ trả cho Công ty TNHH MTV M – tên viết tắt là MCB số tiền nợ gốc là 24.000.000 đồng (hai mươi bốn triệu đồng), không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Cẩm Y - chủ Hộ kinh doanh đại lý nông dược C đã được Tòa án thực hiện việc cấp, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để bà thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình cũng như trình bày ý kiến đối với yêu cầu cầu của nguyên đơn, nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không tham gia tố tụng và không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình nên không ghi nhận được ý kiến của bị đơn.

Đại diện Viện kiểm sát Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là tuân thủ đúng quy định pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 430, Điều 440 Bộ luật dân sự năm 2015 và Điều 24, Điều 50 và Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu tính lãi đối với số tiền nợ gốc 24.000.000 đồng của nguyên đơn do đại diện nguyên đơn đã rút; Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc bị đơn bà Nguyễn Thị Cẩm Y có trách nhiệm trả cho nguyên đơn Công ty TNHH MTV M – tên viết tắt là MCB số tiền nợ gốc là 24.000.000 đồng. Bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Theo chứng cứ nguyên đơn cung cấp thì Công ty TNHH MTV M có mã số doanh nghiệp là: 1402065344, đăng ký thay đổi lần thứ 02 vào ngày 20/02/2020 và hiện còn đang hoạt động. Bên cạnh đó, theo kết quả xác minh tại Công văn số 157/PTCKH ngày 23/5/2022 của phòng Tài chính - Kế hoạch thể hiện: “Đến thời điểm hiện tại phòng Tài chính – Kế hoạch không có nhận được thông báo tạm ngưng hoạt động cũng như thông báo chấm dứt hoạt động hộ kinh doanh. Như vậy Hộ kinh doanh đại lý nông dược C vẫn còn đang hoạt động trên địa bàn đã đăng ký”, chủ hộ vẫn là bà Nguyễn Thị Cẩm Y; Như vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự được xác định là hợp đồng mua bán hàng hóa, chủ thể trong hợp đồng và thực hiện hợp đồng Công ty TNHH MTV M có tư cách pháp nhân, Hộ kinh doanh đại lý nông dược C (cá nhân) chủ hộ là bà Nguyễn Thị Cẩm Y có mục đích kinh doanh và lợi nhuận nên đây là tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 và khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 (sửa đổi năm 2017) và khoản 1 Điều 30 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn có địa chỉ kinh doanh trên địa bàn huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang nên căn cứ điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

[1.2] Tại phiên tòa bị đơn bà Nguyễn Thị Cẩm Y – chủ Hộ kinh doanh đại lý nông dược C đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai không lý do nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bà Y.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét tính hợp pháp của Hợp đồng mua bán hàng hóa:

Ngày 25/4/2019, Công ty MCB có ký Biên bản xác nhận công nợ với bà Nguyễn Thị Cẩm Y, theo đó bà Y xác nhận Cửa hàng C còn nợ lại Công ty MCB số tiền mua phân bón, thuốc bảo vệ thực vật là 30.000.000 đồng và cam kết sẽ trả xong trong năm 2019. Biên bản xác nhận công nợ này có đầy đủ chữ ký và chữ viết của bà Nguyễn Thị Cẩm Y – chủ Cửa hàng C. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án bà Nguyễn Thị Cẩm Y vắng mặt và không có văn bản gì thể hiện ý kiến đối với Biên bản xác nhận công nợ ngày 25/4/2019 nên việc Cửa hàng C do bà Nguyễn Thị Cẩm Y làm chủ còn nợ Công ty MCB số tiền 30.000.000 đồng là có thật và theo khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là việc không cần phải chứng minh. Bên cạnh đó, có cơ sở xác định giữa Công ty MCB và Cửa hàng C do bà Nguyễn Thị Cẩm Y làm chủ có xác lập hợp đồng mua bán phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, tuy không làm Hợp đồng bằng văn bản nhưng qua chứng cứ nguyên đơn cung cấp thì có việc thỏa thuận miệng, theo đó nội dung hợp đồng miệng có quy định đầy đủ về hình thức mua bán, chất lượng sản phẩm, số lượng sản phẩm giao, giá cả, địa điểm nhận hàng, phương tiện giao nhận hàng và phương thức thanh toán. Xét thấy hợp đồng mua bán nêu trên đã được các bên thống nhất thỏa thuận dựa trên cơ sở tự nguyện và thực hiện đầy đủ các trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật, nội dung thoả thuận không trái pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử công nhận hợp đồng mua bán giữa Công ty MCB với Cửa hàng C là hợp pháp theo quy định tại Điều 24 Luật Thương mại năm 2005 (sửa đổi năm 2017) và Điều 430 Bộ luật dân sự năm 2015, các bên phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình đã giao kết.

[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH MTV M:

[2.2.1] Xét yêu cầu trả tiền nợ gốc của nguyên đơn: Theo quy định của pháp luật Hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân, khi phát sinh các khoản nợ, chủ hộ kinh doanh là cá nhân phải chịu trách nhiệm trả hết nợ, không phụ thuộc vào số tài sản kinh doanh hay dân sự mà họ đang có; không phụ thuộc vào việc họ đang thực hiện hay đã chấm dứt thực hiện hoạt động kinh doanh. Nguyên đơn xác nhận bà Y chỉ thanh toán được số tiền nợ gốc là 6.000.000 đồng và còn nợ lại số tiền nợ gốc là 24.000.000 đồng, trong suốt quá trình giải quyết vụ án bị đơn không có ý kiến gì đối với yêu cầu của nguyên đơn nên đây là việc không cần phải chứng minh. Do Hộ kinh doanh đại lý nông dược C đã không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ nên Công ty MCB khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc cá nhân chủ Hộ kinh doanh đại lý nông dược C là bà Nguyễn Thị Cẩm Y phải có nghĩa vụ trả cho Công ty số tiền nợ gốc còn lại là 24.000.000 đồng (hai mươi bốn triệu đồng) là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 79 Nghị định 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 của Chính phủ về Đăng ký doanh nghiệp; Điều 50 Luật Thương mại năm 2005 (sửa đổi năm 2017), Điều 280 và Điều 440 Bộ luật dân sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2.2] Xét yêu cầu tính lãi đến thời điểm Tòa án xét xử của nguyên đơn: Ngày 15/6/2022 nguyên đơn xin thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện yêu cầu tính lãi suất là 0,83%/tháng đối với số tiền nợ gốc bị đơn còn nợ là 24.000.000 đồng tạm tính từ ngày 19/5/2021 đến khi giải quyết xong vụ án. Tuy nhiên, trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án và tại phiên tòa, đại diện của nguyên đơn xin rút lại phần yêu cầu tính lãi trên. Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với phần yêu cầu tính lãi (0,83%/tháng) của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện, không trái quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và có lợi cho bị đơn nên căn cứ Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu tính lãi của nguyên đơn.

[3] Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ nên bị đơn phải nộp toàn bộ án phí có giá ngạch dựa trên giá trị tài sản tranh chấp theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[4] Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị về giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định nêu trên của Tòa án.

[5] Các đương sự được kháng cáo bản án theo quy định của Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 2 Điều 92, Điều 147, Điều 244, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 280, Điều 430 và Điều 440 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1 và khoản 8 Điều 3, Điều 24 và Điều 50 Luật Thương mại năm 2005 (sửa đổi năm 2017); Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; khoản 1 Điều 79 Nghị định 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 của Chính phủ về Đăng ký doanh nghiệp.

Tuyên xử:

1. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu tính lãi 0,83%/tháng từ ngày 19/5/2021 đến khi kết thúc vụ án đối với số tiền nợ gốc 24.000.000 đồng của nguyên đơn do đại diện nguyên đơn đã rút.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc bà Nguyễn Thị Cẩm Y - chủ Hộ kinh doanh đại lý nông dược C phải có nghĩa vụ trả cho Công ty TNHH MTV M số tiền 24.000.000 đồng (Hai mươi bốn triệu đồng).

- Kể từ khi Công ty TNHH MTV M có đơn yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền trên, nếu bà Nguyễn Thị Cẩm Y - chủ Hộ kinh doanh đại lý nông dược C chậm thi hành án thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

3. Về án phí:

- Bà Nguyễn Thị Cẩm Y - chủ Hộ kinh doanh đại lý nông dược C phải chịu 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.

- Công ty TNHH MTV M không phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Công ty TNHH MTV M được nhận lại số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 3.000.000 đồng (ba triệu đồng), theo biên lai thu số 0009093 ngày 07/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

4. Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án ho ặc bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 04/2023/KDTM-ST

Số hiệu:04/2023/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 31/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về