TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 04/2022/KDTM-ST NGÀY 23/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Ngày 23 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 05/2022/TLST-KDTM ngày 26 tháng 5 năm 2022 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2022/QĐXXST-KDTM ngày 18 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2022/QĐST-DSST ngày 05 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dầu nhớt và Hóa chất Khang V Địa chỉ: Số 24 đường số 5, khu dân cư Tấn Tr, phường Phú Th, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn C; cư trú tại: Số 26C/90/191 Đ, phường C, Quận Ng, Hải Phòng là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Giấy ủy quyền số 23/UQ-KV2022 ngày 23/5/2022); vắng mặt.
- Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Vận tải Sông biển Hải  Địa chỉ: Số 2B/145 Ph, phường Đ1, quận H, thành phố Hải Phòng.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Đỗ Thanh T; địa chỉ thường trú: Xóm M, xã Hải Tr, huyện Hải H, tỉnh Nam Định là người đại diện theo pháp luật của bị đơn (Giám đốc Công ty TNHH Vận tải Sông biển Hải Âu); vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 04/5/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:
Ngày 05/4/2019, Công ty TNHH Dầu nhớt và Hóa chất Khang V (sau đây viết là Công ty Khang V) và Công ty TNHH Vận tải Sông biển Phát Đ (nay là Công ty TNHH Vận tải Sông biển Hải Â, sau đây viết là Công ty Hải Â) đã ký Hợp đồng mua bán xăng dầu số: 10/Khang Viet 2019.
Theo hợp đồng hai bên thỏa thuận đơn đặt hàng có thể bằng văn bản, fax, điện thoại hoặc email. Do hai Công ty đã làm ăn lâu năm với nhau, tin tưởng nhau, nên các bên lựa chọn hình thức đặt hàng bằng điện thoại. Công ty Hải  đã thực hiện 02 lần mua hàng của Công ty Khang V. Cụ thể như sau:
Lần thứ nhất: Khoảng đầu tháng 4 năm 2019, người có thẩm quyền của Công ty Hải  gọi điện thoại cho Công ty Khang V đặt hàng với nội dung: Loại hàng hóa là dầu DO 0.05%S, số lượng: 30.000 lít, đơn giá chưa bao gồm thuế GTGT: 15.527,27 đồng/lít, thời gian giao hàng ngày 12/4/2019, địa điểm nhận hàng: Tàu Thành Công 666- Nhà máy Xi măng Hạ L, Sài Gòn, đại diện nhận hàng là người có thẩm quyền của tàu Thành Công 666. Ngày 12/4/2019, Công ty Khang V đã thực hiện việc giao hàng cho Công ty Hải  đúng đơn đặt hàng như nêu trên. Hai bên đã làm Biên bản giao nhận nhiên liệu vào hồi 14h ngày 12/4/2019, thể hiện Công ty Hải  đã kiểm tra và nhận đủ số lượng và chất lượng hàng hóa. Công ty Khang V đã xuất hóa đơn GTGT số 0000953 ngày 12/4/2019 với số tiền hàng đã bao gồm thuế GTGT là 512.400.000đồng.
Lần thứ hai: Khoảng cuối tháng 5 năm 2019, người có thẩm quyền của Công ty Hải  gọi điện thoại cho Công ty Khang V đặt hàng với nội dung: Loại hàng hóa là dầu DO 0.05%S, số lượng: 30.000 lít, đơn giá chưa bao gồm thuế GTGT: 16.009,09 đồng/lít, thời gian giao hàng ngày 27/5/2019, địa điểm nhận hàng: Tàu Thành Công 666- Nhà máy Xi măng Hạ L, Sài Gòn, đại diện nhận hàng là người có thẩm quyền của tàu Thành Công 666. Ngày 27/5/2019, Công ty Khang V đã thực hiện việc giao hàng cho Công ty Hải  đúng đơn đặt hàng như nêu trên. Hai bên đã làm Biên bản giao nhận nhiên liệu vào hồi 8h ngày 27/5/2019, thể hiện Công ty Hải  đã kiểm tra và nhận đủ số lượng và chất lượng hàng hóa. Công ty Khang V đã xuất hóa đơn GTGT số 0000095 ngày 27/5/2019 với số tiền hàng đã bao gồm thuế GTGT là 528.300.000 đồng.
Về phương thức thanh toán: Hai công ty lựa chọn phương thức thanh toán chậm 40 ngày như nêu trong hợp đồng. Vì tin tưởng Công ty Hải  nên Công ty Khang V không yêu cầu Công ty Hải  phải thực hiện bảo lãnh thanh toán qua ngân hàng cho Công ty Khang V số tiền 01 tỷ đồng.
Tuy nhiên, Công ty Hải  đã không thanh toán tiền hàng cho Công ty Khang V theo thời hạn trong hợp đồng. Công ty Khang V đã nhiều lần liên hệ, làm việc nhưng Công ty Hải  không thanh toán, không phúc đáp văn bản yêu cầu trả nợ của Công ty Khang V.
Tính đến thời điểm hiện nay, Công ty Hải  chưa thanh toán bất kỳ khoản tiền nào cho Công ty Khang V theo hai đơn đặt hàng và hóa đơn xuất nêu trên cũng như không thực hiện việc bảo lãnh thanh toán cho Công ty Khang V.
Tạm tính đến hết ngày 23/8/2022, Công ty Hải  còn nợ Công ty Khang V tổng số tiền là 1.851.389.481 đồng. Trong đó:
- Nợ gốc tiền bán xăng dầu theo hóa đơn là: 1.040.700.000 đồng.
- Nợ lãi phạt phát sinh kể từ ngày vi phạm đến hết ngày 23/8/2022 là: 810.689.481 đồng.
Nay, Công ty Khang V yêu cầu Công ty Hải  phải trả cho Công ty Khang V toàn bộ số tiền trên và số tiền lãi phát sinh kể từ ngày 24/8/2022 cho đến khi trả xong toàn bộ nợ theo hợp đồng đã ký kết.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập hợp lệ bị đơn nhưng đều vắng mặt và cũng không có văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên có ý kiến như sau:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định, bị đơn chưa thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, cụ thể vắng mặt tại các lần Tòa án triệu tập.
Quan điểm giải quyết vụ án: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Tòa án nhân dân quận Hải An nhận định:
- Về tố tụng:
[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa hai công ty có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận, là tranh chấp về kinh doanh thương mại, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có trụ sở tại quận Hải An nên căn cứ điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng.
[2] Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn vắng mặt, không lý do, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
[3] Ngày 05/4/2019, Công ty Khang V và Công ty Phát Đ (nay đổi tên là Công ty Hải Â) ký kết Hợp đồng mua bán xăng dầu số: 10/Khang Viet 2019 (sau đây viết là Hợp đồng). Nội dung của Hợp đồng: Công ty Khang V đồng ý bán và Công ty Hải  đồng ý mua nhiên liệu điezen và dầu mỡ nhờn phục vụ cho phương tiện của Công ty Hải  đang khai thác và quản lý, thể hiện trong đơn đặt hàng. Đơn giá đối với dầu Điezen: Căn cứ vào thông báo giá bằng văn bản/email/tin nhắn/điện thoại cho Công ty Hải  tại từng thời điểm. Đơn giá đối với dầu mỡ nhờn: Theo giá Công ty Khang V thông báo cho Công ty Hải  tại thời điểm giao nhận hàng. Về hình thức thanh toán: Công ty Hải  chuyển khoản qua ngân hàng cho Công ty Khang Vt: Tài khoản số 01810035015xx của Công ty Khang V mở tại Ngân hàng TMCP Ng- Nam Sài Gòn. Phương thức thanh toán: Các bên lựa chọn 1 trong 2 hình thức thanh toán là thanh toán ngay 100% giá trị đơn hàng sau khi nhận hàng và thanh toán chậm 40 ngày (thanh toán trong 40 ngày kể từ ngày nhận hàng). Lựa chọn thanh toán chậm thì Công ty Hải  phải thực hiện bảo lãnh thanh toán qua ngân hàng cho Công ty Khang V là 01 tỷ đồng.
[4] Xét tính hợp pháp của Hợp đồng: Người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự, hoàn toàn tự nguyện; mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự. Về hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định tại Điều 119 của Bộ luật Dân sư và Điều 24 Luật Thương mại. Về nội dụng của hợp đồng: Tại Điều 6 của Hợp đồng các bên thỏa thuận: Trong trường hợp phát sinh tranh chấp hai bên không tự giải quyết được thì sẽ đưa ra tòa án kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh để giải quyết. Thỏa thuận lựa chọn Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp của các bên không phù hợp với quy định về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh theo Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, nguyên đơn đã không áp dụng điều khoản này của Hợp đồng, nên không xét. Các điều khoản khác của Hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật nên phát sinh hiệu lực đối với các bên.
[5] Xét việc thực hiện Hợp đồng của các bên:
[5.1] Theo lời khai của nguyên đơn thì Công ty Hải  đã 02 lần đặt hàng mua dầu DO 0.05%S của Công ty Khang V qua điện thoại. Nội dung 02 đơn đặt hàng về loại hàng hóa, số lượng, đơn giá, thời gian, địa điểm và người đại diện nhận hàng theo lời trình bày của nguyên đơn phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác là 06 Phiếu xuất kho hàng giữ hộ, 02 Biên bản giao nhận nhiên liệu giữa bên giao hàng là Công ty Khang V với bên nhận hàng là Công ty Hải  và 02 hóa đơn giá trị gia tăng. Các tài liệu, chứng cứ này được lập vào ngày 12/4/2019 và ngày 27/5/2019. Như vậy, có đủ căn cứ xác định: Công ty Hải  đã 02 lần đặt mua dầu DO 0.05%S và nhận hàng của Công ty Khang V. Cụ thể: Lần thứ nhất vào ngày 12/4/2019, với số lượng 30.000 lít, tiền hàng đã bao gồm thuế GTGT là 512.400.000đồng. Lần thứ hai: Vào ngày 27/5/2019, với số lượng: 30.000 lít, tiền hàng đã bao gồm thuế GTGT là 528.300.000 đồng.
[5.2] Về phương thức thanh toán tiền hàng: Theo lời khai của nguyên đơn, các bên lựa chọn phương thức thanh toán chậm 40 ngày. Công ty Hải  chưa thanh toán bất kỳ khoản tiền nào cho Công ty Khang V theo hai đơn đặt hàng và hóa đơn GTGT cũng như không thực hiện việc bảo lãnh thanh toán cho Công ty Khang V với số tiền 01 tỷ đồng. Để chứng minh cho yêu cầu của mình, nguyên đơn đã giao nộp tập sao kê giao dịch của tài khoản số 01810035015xx của Công ty Khang V mở tại Ngân hàng TMCP Ng từ ngày 01/02/2019 đến ngày 31/5/2022, thể hiện Công ty Hải  chưa chuyển khoản bất kỳ khoản tiền nào cho Công ty Khang V. Mặt khác, bị đơn không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Vì vậy, lời trình bày của nguyên đơn có căn cứ chấp nhận, nguyên đơn đã thực hiện đúng hợp đồng, bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng.
[6] Xét yêu cầu trả nợ gốc tiền bán xăng dầu của nguyên đơn: Từ mục [5.1] và [5.2] xác định bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền mua bán xăng dầu là: 512.400.000 đồng + 528.300.000 đồng = 1.040.700.000 đồng. Căn cứ Điều 50 của Luật Thương mại, cần chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.
[7] Xét yêu cầu trả tiền lãi của nguyên đơn: Theo điểm 3.4 Điều 3 của Hợp đồng các bên thỏa thuận: Nếu Công ty Hải  thanh toán trễ hơn 3 ngày kể từ ngày đến hạn thì phải trả lãi cho Công ty Khang V với lãi suất 2%/tháng (0,067%/ngày). Thỏa thuận này của các bên về quyền yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán và mức lãi suất là phù hợp với quy định tại Điều 306 của Luật Thương mại. Từ mục [5.1] và [5.2] xác định ngày vi phạm nghĩa vụ thanh toán của Công ty Hải  đối với lần mua hàng thứ nhất (12/4/2019) là ngày 26/5/2019; đối với lần mua hàng thứ hai (27/5/2019) là ngày 10/7/2019. Vì ngày 26/5/2019 là ngày chủ nhật nên tiền lãi được tính từ ngày 27/5/2019 (đối với lần mua hàng thứ nhất).
[7.1] Số tiền lãi tính đến thời điểm xét xử đối với lần mua hàng thứ nhất là:
512.400.000đồng x 0,067%/ ngày x 1.185 ngày (từ 27/5/2019 đến 23/8/2022) = 406.819.980 đồng.
[7.2] Số tiền lãi tính đến thời điểm xét xử đối với lần mua hàng thứ hai là: 528.300.000 đồng x 0,067%/ ngày x 1.141 ngày (từ 10/7/2019 đến 23/8/2022) = 403.869.501 đồng.
[7.3] Tổng số tiền lãi là: 810.689.481 đồng.
[8] Từ mục [6] và [7] xét cần chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[9] Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong bị đơn tiếp tục phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận.
[10] Về án phí: Do toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 117, 119 của Bộ luật Dân sự; các điều 24, 50, 306 của Luật Thương mại; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Chấp toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Buôc Công ty TNHH Vận tải Sông biển Hải  phải trả cho Công ty TNHH Dầu nhớt và Hóa chất Khang V tông s ố tiền là 1.851.389.481đ (một tỷ tám trăm năm mươi mốt triệu ba trăm tám mươi chín nghìn bốn trăm tám mươi mốt đồng) Trong đó: Nợ gốc tiền mua bán xăng dầu là 1.040.700.000 đồng; nợ lãi chậm thanh toán là 810.689.481 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, Công ty TNHH Vận tải Sông biển Hải  còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc mua bán xăng dầu chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.
2. Về án phí:
- Công ty TNHH Vận tải Sông biển Hải  phải chịu 67.541.000đ (sáu mươi bảy triệu năm trăm bốn mươi mốt nghìn đồng) án phí dân sự sơ thâm.
- Trả lại Công ty TNHH Dầu nhớt và Hóa chất Khang V sô tiên tam ưng an phí đã nộp: 19.500.000đ (mười chín triệu năm trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu sô 0004621 ngày 25/5/2022 của Chi cuc Thi hanh an dân sư quân Hai An , Hải Phòng.
Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.
Trường hợp ban an đư ợc thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 04/2022/KDTM-ST
Số hiệu: | 04/2022/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hải An - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 23/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về