Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 03/2021/KDTM-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 03/2021/KDTM-PT NGÀY 29/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 29 tháng 3 năm 2021 tại Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 01/2021/TLPT- KDTM ngày 05 tháng 01 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”.

Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 32/2020/KDTM-ST ngày 23/11/2020 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2021/QĐ-PT ngày 17 tháng 02 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2021/QĐ- PT ngày 02 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Thương mại K Địa chỉ: Đường Đ, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Thế H. Chức vụ: Giám đốc. Có mặt.

2. Bị đơn: Công ty Cổ phần Xây dựng Thương mại A Địa chỉ: Đường S, phường T, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Duy X. Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1961. Địa chỉ: Đường Y, phường B, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng (theo Giấy ủy quyền số 08/2021/GUQ-AXT ngày 24/3/2021 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Xây dựng Thương mại A). Có mặt.

3. Người kháng cáo: Công ty Cổ phần Xây dựng Thương mại A, là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngày 02/4/2018, Công ty Cổ phần Thương mại K (sau đây gọi tắt là Công ty K) và Công ty Cổ phần Xây dựng Thương mại A (sau đây gọi tắt là Công ty A) ký Hợp đồng mua bán sắt thép số 289/CPHK-AXT, theo đó Công ty K bán sắt thép xây dựng từ D6 đến D32 và các loại thép khác theo đơn hàng cụ thể cho các công trình tại khu vực thành phố Đà Nẵng do Công ty A thi công.

Ngày 05/4/2018 Công ty K xuất Hóa đơn giá trị gia tăng bán hàng cho Công ty A với số tiền 339.546.196 đồng. Mặc dù đã nhận sắt thép thi công công trình nhưng Công ty A không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận tại Hợp đồng hai bên đã ký kết.

Quá trình giải quyết vụ án Công ty A có trả thêm tiền và Công ty K có bản tự khai bổ sung xác định đến ngày 10/9/2020 Công ty A còn phải trả tổng số tiền 89.823.990 đồng, trong đó nợ gốc là 29.546.196 đồng, tiền lãi là 60.277.794 đồng.

Công ty A không có ý kiến trình bày về vụ án, có Đơn ngày 21/8/2020 với nội dung xin vắng mặt trong các buổi làm việc, hòa giải, xét xử tại các cấp Tòa án.

Với nội dung vụ án như trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định:

Căn cứ các Điều 24, 50, 55 và 306 của Luật Thương mại; Khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” của Công ty Cổ phần Thương mại K đối với Công ty Cổ phần Xây dựng Thương mại A.

Buộc Công ty Cổ phần Xây dựng Thương mại A phải thanh toán cho Công ty Cổ phần Thương mại K số tiền 89.823.990 đồng. Trong đó, tiền gốc là 29.546.196 đồng, tiền lãi tính từ ngày 06/5/2018 đến ngày 10/9/2020 là 60.277.794 đồng.

Bản án còn tuyên về lãi chậm thi hành án, án phí sơ thẩm, quyền kháng cáo của các đương sự và quy định về thi hành án dân sự.

Ngày 11/12/2020, Công ty A có Đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm số 32/2020/KDTM-ST ngày 23/11/2020 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu để xét xử lại theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của Công ty A đề nghị Công ty K giảm số tiền lãi vì bị đơn gặp khó khăn trong kinh doanh, nếu được giảm Công ty sẽ tiến hành thanh toán nợ sớm cho Công ty K.

Công ty A đề nghị trả nợ gốc và lãi chậm thanh toán, tổng cộng 45.000.000 đồng bằng tiền mặt tại phiên tòa. Công ty K thống nhất với đề nghị trả nợ của bị đơn.

[2] Phát biểu tại phiên tòa của đại diện Viện Kiểm sát: Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ quy định pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.

Tại phiên tòa đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa.

[3] Xét thấy: Các bên đương sự đã thỏa thuận được việc giải quyết vụ án và sự thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội nên cần công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa.

[4] Về án phí Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm 2.250.000 đồng; án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm 2.000.000 đồng bị đơn tự nguyện chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 300 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 50 và Điều 306 Luật Thương mại, Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 32/2020/KDTM- ST ngày 23 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự: Công ty Cổ phần Xây dựng Thương mại A trả số tiền nợ 45.000.000 đồng (bốn mươi lăm triệu đồng) cho Công ty Cổ phần Thương mại K vào ngày 29/3/2021 (đã thực hiện xong nghĩa vụ trả tiền).

2. Về án phí:

- Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Công ty Cổ phần Xây dựng Thương mại A phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 2.250.000 đồng (hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).

Hoàn trả Công ty Cổ phần Thương mại K số tiền tạm ứng án phí 4.245.600 đồng (bốn triệu hai trăm bốn mươi lăm nghìn sáu trăm đồng) đã nộp theo Biên lai thu số 0009167 ngày 11/6/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

- Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Công ty Cổ phần Xây dựng Thương mại A phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm 2.000.000đ, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 2.000.000đ đã nộp theo Biên lai thu số 0005183 ngày 23/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3601
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 03/2021/KDTM-PT

Số hiệu:03/2021/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 29/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về