Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 02/2024/KDTM-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 02/2024/KDTM-ST NGÀY 11/04/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 11/4/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; xét xử sơ thẩm công khai vụ thụ lý số: 13/2023/TLST- KDTM ngày 06 tháng 11 năm 2023 về việc ''Tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2024/QĐXX-ST ngày 06/02/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2024/QĐST-KDTM ngày 04/3/2024; Quyết định hoãn phiên toà số 03/2024/QĐST-KDTM ngày 26/3/2024, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Công ty TNHH A.

Địa chỉ: Khu công nghiệp Quế Võ, phường P, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

- Người đại diện theo pháp luật: Ông VDS – Giám đốc.

- Người đại diện theo ủy quyền: Bà Vũ Thị M, sinh năm 1986. Địa chỉ: Khu công nghiệp Quế Võ, phường P, Thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. (Văn bản uỷ quyền số 05/GUQ-AEP ngày 10/7/2023. (Có mặt)

* Bị đơn: Công ty TNHH H;

Địa chỉ: Đường TS 10, khu Công nghiệp T, xã N, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

- Người đại diện theo pháp luật: Ông CB – Tổng giám đốc (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn xuất trình và tại phiên tòa đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn trình bày:

Vào ngày 11/01/2021 và 11/02/2023 công ty TNHH A (gọi tắt là công ty Engineering Plastic Vina). Địa chỉ: Khu công nghiệp Quế Võ, phường P, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; Người đại diện theo pháp luật: Ông Choi Won Suk – Giám đốc có ký hợp đồng với công ty TNHH H (gọi tắt là công ty H). Địa chỉ: Đường TS 10, khu Công nghiệp T, xã N, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; Người đại diện theo pháp luật: Ông OUYANG RUI – Tổng giám đốc. Theo hợp đồng số 11022021-AEP-HETI ngày 11/02/2021 và hợp đồng số 11022023-AEP-HETI ngày 11/02/2023 được ký kết giữa công ty TNHH A và công ty TNHH H về việc mua bán hàng hóa, thì công ty Engineering Plastic Vina sẽ cung cấp các mặt hàng bao gồm tấm nhôm, tấm nhựa kỹ thuật cho công ty TNHH H.

Từ tháng 02/2023 đến tháng 06/2023 công ty Engineering Plastic Vina đã cung cấp cấp các mặt hàng là tấm nhôm, tấm nhựa kỹ thuật cho công ty H làm nhiều lần. Mỗi lần giao hàng hai công ty đều có phiếu giao hàng, nhận hàng đầy đủ và Công ty TNHH A đều làm thủ tục xuất hóa đơn giá trị gia tăng cụ thể như sau:

- Ngày 26/8/2022 phát hành hóa đơn số 00001570 với giá trị sau thuế là 134.109.054 đồng;

- Ngày 31/10/2022 phát hành hóa đơn số 00002432 với giá trị sau thuế là 61.742.520 đồng;

- Ngày 30/01/2023 phát hành hóa đơn số 00000123 với giá trị sau thuế là 19.643.272 đồng;

- Ngày 26/4/2023 phát hành hóa đơn số 00000915 với giá trị sau thuế là 40.114.789 đồng;

- Ngày 29/5/2023 phát hành hóa đơn số 00001264 với giá trị sau thuế là 88.511.962 đồng;

- Ngày 28/6/2023 phát hành hóa đơn số 00001489 với giá trị sau thuế là 79.668.369 đồng;

Tổng số tiền theo hóa đơn giá trị gia tăng là 423.789.966 đồng Ngày 30/6/2023 công ty TNHH A và công ty TNHH H có tiến hành việc chốt công nợ, cụ thể công ty TNHH H còn nợ công ty TNHH A tổng số tiền là 421.071.784 đồng.

Giữa hóa đơn giá trị gia tăng và biên bản chốt công nợ 30/6/2023 có sự sai số do đánh máy, nay nguyên đơn công ty Engineering Plastic Vina chỉ yêu cầu phía bị đơn phải thanh toán số tiền nợ như theo biên bản chốt công nợ ngày 30/6/2023, cụ thể yêu cầu bị đơn phải thanh toán số tiền 421.071.784 đồng.

Theo hợp đồng ký kết giữa 2 bên vào ngày 11/02/2023, bên mua hàng sẽ thanh toán cho bên bán hàng bằng hình thức chuyển khoản vào tài khoản của bên bán hoặc tiền mặt theo phương thức trả chậm trong thời hạn 60 ngày sau ngày xuất hoá đơn hoặc chứng từ. Tuy nhiên tính đến thời điểm khởi kiện và thời điểm xét xử thì các hóa đơn đều đã quá hạn hơn 60 ngày nhưng công ty không nhận được bất kỳ khoản thanh toán nào từ phía công ty bị đơn cũng như không thể liên hệ đến phòng kế toán của công ty bị đơn. Công ty TNHH H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, do vậy nguyên đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết:

Buộc công ty TNHH H phải trả cho công ty TNHH A tổng số tiền là 421.071.784 đồng. Về lãi suất: không yêu cầu.

Ngoài ra công ty Engineering Plastic Vina không có ý kiến yêu cầu gì khác

* Bị đơn công ty TNHH H đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, Toà án đã tiến hành xác minh thấy phía bị đơn hiện không còn trụ sở hoạt động, không hợp tác và không có ý kiến về việc giải quyết công nợ theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du phát biểu ý kiến đã đánh giá việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng pháp luật; Nguyên đơn chấp hành đúng quy định pháp luật; Bị đơn vắng mặt tại các buổi làm việc, phiên họp về việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải và các phiên toà. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ các Điều 274, 275, 276, 277, 278, 280, 357, 430, 433, 434, 440 Bộ luật dân sự;

Căn cứ vào các Điều 4; Điều 50; Điều 85 Luật thương mại;

Căn cứ các Điều 30, 35, 39, 40,147, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn công ty TNHH A. Buộc công ty TNHH H phải thanh toán số tiền mua hàng hoá cho công ty TNHH A là 421.071.784 đồng.

Về án phí: Nguyên đơn không phải chịu án phí Kinh doanh thương mại sơ thẩm. Bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ và các chứng cứ được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền và thủ tục tố tụng:

- Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Về chủ thể công ty Engineering Plastic Vina và công ty H là hai công ty có tư cách pháp nhân, có đăng ký kinh doanh hợp pháp, hoạt động vì mục đích lợi nhuận. Do vậy, công ty TNHH A khởi kiện công ty TNHH H có nghĩa vụ trả cho công ty Engineering Plastic Vina số tiền mua hàng còn nợ là 421.071.784 đồng. Toà án xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hoá” và giải quyết vụ án theo Điều 30 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Bị đơn trụ sở tại Đường TS 10, khu Công nghiệp T, xã N, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Căn cứ vào Hợp đồng mua bán hàng hóa ký giữa các bên, căn cứ các Điều 30, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án nhân dân huyện Tiên Du, thụ lý giải quyết vụ án. Trong vụ án không có đương sự đề nghị áp dụng thời hiệu.

- Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà: Bị đơn là công ty H, Toà án đã triệu tập bị đơn nhiều lần, nhưng bị đơn không chấp hành, không lên làm việc, Toà án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng và niêm yết theo đúng quy định, căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn công ty Engineering Plastic Vina về việc yêu cầu Công ty H phải trả cho công ty Engineering Plastic Vina số tiền mua bán hàng hoá còn nợ là 421.071.784 đồng và không yêu cầu lãi suất.

Hội đồng xét xử thấy: Theo hợp đồng số 11022021-AEP-HETI ngày 11/02/2021 và hợp đồng số 11022023-AEP-HETI ngày 11/02/2023 được ký kết giữa công ty TNHH A và công ty TNHH H. Hợp đồng được hai bên lập thành văn bản, do người có thẩm quyền ký kết, nội dung, thoả thuận và các điều khoản đều thể hiện ý chí tự nguyện của các bên giao kết hợp đồng và phù hợp với quy định của pháp luật về nội dung và hình thức nên hợp đồng này là hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết và các bên phải có trách nhiệm thực hiện các thoả thuận đã cam kết.

Sau khi hợp đồng được ký kết, công ty TNHH A đã giao các mặt hàng gồm tấm nhựa, tấm nhôm hợp kim cho công ty TNHH H đầy đủ. Phía công ty TNHH A đã xuất hoá đơn đầy đủ cho công ty H. Hai bên đã lập biên bản xác nhận công nợ thể hiện chốt đến ngày 30/6/2023 công ty TNHH H còn nợ công ty TNHH A số tiền là 421.071.784 đồng. Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Tiên Du buộc bị đơn phải thanh toán số tiền nợ theo biên bản chốt công nợ ngày 30/6/2023.

Xét thấy: Công ty TNHH A đã nhiều lần làm thông báo, giấy đề nghị thanh toán công nợ, thông báo gọi điện thoại và đến tận công ty nhưng công ty TNHH H không hợp tác, đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo Điều 3 của hợp đồng, do vậy yêu cầu buộc công ty TNHH H phải trả số tiền mua hàng còn nợ là 421.071.784 đồng là có căn cứ nên được chấp nhận.

Đối với yêu cầu tính lãi suất, nguyên đơn không yêu cầu, xét đây là sự tự nguyện của đương sự do vậy không đặt ra giải quyết.

[3] Xét lời đề nghị của đại diện VKS nhân dân huyện Tiên Du là có căn cứ nên chấp nhận.

[4] Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận vì vậy bị đơn phải chịu toàn bộ án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo quy định. Hoàn trả nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 30, 35, 39, 227, 228, 262, 264, 266, 267, 271, 273 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 280, 357, 430, 440 Bộ luật dân sự;

Căn cứ vào các Điều 4; Điều 50; Điều 85 Luật thương mại;

Căn cứ Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án;

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH A.

Buộc công ty TNHH H phải thanh toán trả cho Công ty TNHH A số tiền 421.071.784 đồng (Bốn trăm hai mốt triệu không trăm bảy mốt nghìn bảy trăm tám tư đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu lãi suất đối với số tiền chưa thi hành án theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự.

2. Về án phí: Công ty TNHH H phải chịu 20.842.871 đồng tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Hoàn trả cho Công ty TNHH A số tiền 10.421.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001183 ngày 03/11/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án niêm yết hợp lệ theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 02/2024/KDTM-ST

Số hiệu:02/2024/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 11/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về