TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIO LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 02/2023/KDTM-ST NGÀY 23/03/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ
Ngày 23 tháng 3 năm 2023, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Gio L xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 05/2022/TLST-KDTM ngày 09 tháng 11 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2023/QĐXXST-KDTM ngày 09/02/2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2023/QĐST-KDTM ngày 09/3/2023, giữa:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển cơ sở hạ tầng Q; địa chỉ: số 53 đường Lê Lợi, Phường X, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.
Người đại diện hợp pháp: ông Hoàng Kim Th – chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị, kiêm Giám đốc Công ty, làm đại diện theo pháp luật.
Người đại diện theo uỷ quyền: ông Văn Nhân L – Chức vụ: Kế toán trưởng Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển cơ sở hạ tầng Q (Giấy uỷ quyền ngày 01/11/2022); có mặt.
- Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng H; địa chỉ: số 36 đường T, thị trấn Gio L, huyện Gio L, tỉnh Quảng Trị.
Người đại diện hợp pháp: ông Nguyễn Đức Tr – chức vụ: Giám đốc Công ty, làm đại diện theo pháp luật; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện đề ngày 01/11/2022, tại phiên tòa hôm nay đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn trình bày:
Theo các Hợp đồng kinh tế đã ký kết số 51/2016/HĐKT/BT ngày 15/6/2016; số 24-04-2019/HĐKT ngày 24/4/2019; số 10-4-2019/HĐKT ngày 10/4/20219 và số 06- 04-2020/HĐKT ngày 06/4/2020, giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng H (Công ty TNHH XD H) và Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển cơ sở hạ tầng Q (Công ty CPĐT&PT HT Q) về việc mua bán bê tông thương phẩm và ống cống bê tông ly tâm. Theo đó, Công ty CPĐT&PT HT Q đã nhiều lần bán bê tông thương phẩm và ống cống bê tông ly tâm cho Công ty TNHH XD H; tại Công văn số 07/CV về việc thanh toán công nợ ngày 13/6/2022, Công ty TNHH XD H xác nhận còn nợ số tiền 496.661.000 đồng và cam kết thanh toán theo các lần cụ thể như sau:
Lần 1: Tháng 5/2022 khoảng 100.000.000 đồng. Lần 2: Tháng 6/2022 khoảng 70.000.000 đồng. Lần 3: Tháng 7/2022 khoảng 70.000.000 đồng. Lần 4: Tháng 8/2022 khoảng 50.000.000 đồng.
Lần 5: Tháng 9/2022 khoảng 50.000.000 đồng. Lần 6: Tháng 10/2022 khoảng 50.000.000 đồng. Lần 7: Tháng 12/2022 khoảng 104.661.000 đồng.
Tuy nhiên, sau khi cam kết đến nay Công ty TNHH XD H chỉ mới trả được 30.000.000 đồng vào ngày 31/5/2022. Vì vậy, Công ty CPĐT&PT HT Q khởi kiện yêu cầu Toà án buộc Công ty TNHH XD H phải trả số tiền còn nợ là 464.661.000 đồng.
Sau khi Toà án thụ lý vụ án ngày 30/12/2022 Công ty TNHH XD H đã tự nguyện trả được 50.000.000 đồng. Ngày 06/01/2023 và tại phiên toà hôm nay, Công ty CPĐT&PT HT Q đã rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 50.000.000 đồng đã trả, chỉ yêu cầu Toà án buộc Công ty TNHH XD H phải trả số tiền là 414.661.000 đồng.
- Tại bản tự khai ngày 12/12/20222, bị đơn Công ty TNHH XD H trình bày:
Căn cứ Hợp đồng kinh tế số 24-4-2019/HĐKT ngày 24/4/2019 giữa hai Công ty và căn cứ vào số liệu đối chiếu công nợ thì Công ty TNHH XD H còn nợ số tiền là 464.661.000 đồng. Tuy nhiên, năm 2020 do dịch Covid 19 diễn ra đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thi công các công trình của Công ty. Bên cạnh đó, còn bị ảnh hưởng lớn của thời tiết, các đợt mưa kéo dài kèm theo bão từ tháng 10/2020 đến tháng 01/2021. Đặc biệt là trận lũ lịch sử vào tháng 10/2020 làm nhiều công trình và máy móc thiết bị bị hư hại nặng, công trình bị trì trệ hoàn toàn không thể triển khai được. Vật liệu khan hiếm, giá cả tăng 40% đến 50% so với dự toán, công trình đấu thầu trọn gói không được điều chỉnh giá dẫn đến thua lỗ. Một số công trình đã nghiệm thu nhưng chưa có vốn để thanh toán. Năm 2020 và 2021, do dịch bệnh và ảnh hưởng thời tiết nên không thi công kịp theo nguồn vốn được phân bổ, có nhiều công trình bị điều chuyển khối lượng và vốn. Số tiền mua vật liệu ống cống làm các công trình sau chưa được thanh toán… Hiện nay Công ty chúng tôi đang gặp khó khăn về tài chính với số nợ trên, Công ty cam kết sẽ thanh toán 10% số tiền nợ trong tháng 12/2022 và cố gắng thanh toán số tiền còn lại trong quý II/2023.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1]. Về quan hệ tranh chấp: Công ty CPĐT&PT HT Q khởi kiện yêu cầu Công ty TNHH XD H trả số tiền còn nợ khi mua Bê tông thương phẩm và ống Cống ly tâm theo các Hợp đồng số 51/2016/HĐKT/BT ngày 15/6/2016;
số 24-04-2019/HĐKT ngày 24/4/2019; số 10-4-2019/HĐKT ngày 10/4/20219 và số 06-04-2020/HĐKT ngày 06/4/2020. Do đó, Toà án xác định đây là vụ án Kinh doanh thương mại về “Tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hoá” giữa hai tổ chức có đăng ký kinh doanh, đều có mục đích lợi nhuận theo quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn Công ty TNHH XD H, có địa chỉ đăng ký trụ sở tại: số 36 T, thị trấn Gio L, huyện Gio L, tỉnh Quảng Trị. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Gio L thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.
[1.3] Về sự vắng mặt của bị đơn: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt đầy đủ và hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án cho bị đơn Công ty TNHH XD H; tuy nhiên, bị đơn không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên toà nhưng bị đơn Công ty TNHH XD H vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Ngày 21/3/2023, ông Nguyễn Đức Tr giám đốc Công ty TNHH XD H có công văn xin dời lịch xét xử sau ngày 10/4/2023 với lý do bị ốm đang điều trị. Tại Công văn số 64/CV-TA ngày 21/3/2023, Toà án yêu cầu ông Nguyễn Đức Tr - Giám đốc Công ty TNHH XD H cung cấp Bệnh án điều trị bệnh để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và thuộc trường hợp bất khả kháng, nhưng Công ty TNHH XD H không cung cấp. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của BLTTDS để tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[1.4] Xét yêu cầu rút một phần khởi kiện của nguyên đơn: Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Công ty CPĐT&PT HT Q rút một phần yêu cầu khởi kiện với số tiền gốc là 50.000.000 đồng; chỉ yêu cầu Toà án buộc Công ty TNHH XD H phải trả số tiền còn nợ là 414.661.000 đồng. Xét thấy, nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật nên cần chấp nhận và đình chỉ yêu cầu khởi kiện đã rút.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Xét tính hợp pháp của Hợp đồng và chủ thể của hợp đồng:
Căn cứ các Hợp đồng kinh tế đã ký kết giữa Công ty TNHH XD H và Công ty CPĐT&PT HT Q, Hội đồng xét xử thấy rằng: Chủ thể tham gia ký kết hợp đồng có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, các bên tham gia ký kết hợp đồng hoàn toàn tự nguyện, mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội nên các Hợp đồng trên là hợp pháp.
[2.2] Xét hình thức và nội dung của hợp đồng:
Hình thức của Hợp đồng được lập thành văn bản, có chữ ký của các bên tham gia hợp đồng.
[2.3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như các Hợp đồng kinh tế số 51/2016/HĐKT/BT ngày 15/6/2016; số 24-04-2019/HĐKT ngày 24/4/2019; số 10-4- 2019/HĐKT ngày 10/4/20219 và số 06-04-2020/HĐKT ngày 06/4/2020 mà các bên đã ký kết; Công văn số 70/CV ngày 13/5/2022 về việc thanh toán công nợ của Công ty TNHH XD H và bản tự khai ngày 12/12/20222, bị đơn Công ty TNHH XD H có đủ cơ sở xác định giữa nguyên đơn và bị đơn có Hợp đồng mua bán hàng hoá; do đó, quyền và nghĩa vụ của các bên đã phát sinh phù hợp với quy định tại Điều 24 Luật thương mại 2005, sửa đổi bổ sung năm 2019.
Căn cứ Công văn số 70/CV ngày 13/5/2022 về việc thanh toán công nợ, bản tự khai ngày 12/12/2022 của Công ty TNHH XD H thì Công ty TNHH XD H còn nợ tiền mua hàng của Công ty CPĐT&PT HT Q với số tiền 464.661.000 đồng nhưng chưa thực hiện việc thanh toán cho nguyên đơn.
Trong thời gian chuẩn bị xét xử vụ án, Công ty TNHH XD H có thanh toán cho nguyên đơn số tiền 50.000.000 đồng, còn nợ lại số tiền 414.661.000 đồng đến nay vẫn chưa thanh toán theo đơn xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện ngày 06/01/2023 của nguyên đơn; Công ty TNHH XD H đề nghị xin được trả số tiền còn nợ trong Quý II/2023 nhưng Công ty CPĐT&PT HT Q không đồng ý.
Căn cứ Công văn số 70/CV ngày 13/5/2022 về việc thanh toán công nợ của Công ty TNHH XD H xin được trả theo nhiều kỳ, nhưng bị đơn không thực hiện là vi phạm nghĩa vụ cam kết. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của Công ty CPĐT&PT HT Q buộc Công ty TNHH XD H trả số tiền còn nợ là 414.661.000 đồng là có căn cứ cần chấp nhận, phù hợp với quy định tại Điều 50 của Luật Thương mại năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2019. [3]. Về án phí:
Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên không phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Bị đơn phải chịu án phí đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên được được chấp nhận trên số tiền phải trả cho nguyên đơn (20.000.000 đồng + 4% của số tiền vượt quá 400.000.000 đồng là 14.661.000 đồng = 20.586.000 đồng) .
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 217, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 401 Bộ luật dân sự; khoản 1, 8 Điều 3; khoản 1 Điều 4, các Điều 24, 50, 55 của Luật Thương mại;
Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án, xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng H phải trả cho Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển hạ tầng Quảng Trị số tiền còn nợ là 414.661.000 đồng (Bốn trăm mười bốn triệu sáu trăm sáu mươi mốt nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bên được thi hành án, mà bên có nghĩa vụ chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền, thì phải chịu khoản tiền lãi trên số tiền chậm thi hành án, tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty CPĐT&PT HT Q đối với khoản tiền mà nguyên đơn đã rút 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).
3. Về án phí:
Bị đơn Công ty TNHH XD H phải chịu 20.586.000 đồng án phí Kinh doang thương mại sơ thẩm.
Hoàn trả cho Công ty CPĐT&PT HT Q số tiền 11.293.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số CC/2022/0000021 ngày 08/11/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Gio L.
4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
5. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá số 02/2023/KDTM-ST
Số hiệu: | 02/2023/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gio Linh - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 23/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về