TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒN ĐẤT – TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 01/2022/KDTM-ST NGÀY 11/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Trong ngày 11 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 01/2022/TLST- KDTM ngày 04 tháng 01 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2022/QĐXX-ST ngày 12 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I.
Địa chỉ: số 04 đường 30/4, phường 1, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Trần Thị Đ, chức vụ: Tổng giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh L, chức vụ: Giám đốc chi nhánh Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I tại Kiên Giang (theo văn bản ủy quyền số 90/QU-IMP ngày 18/8/2021) (có mặt).
Địa chỉ: số 337 đường Mạc Cửu, phường Vĩnh Thanh, thành phố RG, tỉnh KG.
Bị đơn Ông Lương Duy H, sinh năm 1983 (vắng mặt).
Địa chỉ: Tổ 3, ấp T, xã Bình Sơn, huyện HD, tỉnh KG.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 18/8/2021 và trong quá trình giải quyết người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Thanh L trình bày:
Vào ngày 02/01/2020 Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I/Chi nhánh Kiên Giang có ký kết hợp đồng mua bán số 73/HĐMB-CNKG.2020 với ông Lương Duy H - Chủ quầy thuốc Duy H với nội dung Công ty sẽ bán cho ông H các sản phẩm thuốc do Công ty sản xuất và ông H phải thanh toán cho Công ty đúng giá trị ghi trên hóa đơn bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản.
Thực hiện hợp đồng trên phía Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I đã giao các sản phẩm thuốc cho ông H và xuất hóa đơn vào các ngày 16/3/2020, 17/3/2020 và 20/3/2020; ông H đã nhận hàng đầy đủ nH không thực hiện việc thanh toán tiền cho Công ty đúng theo thỏa thuận.
Đến ngày 06/4/2021 sau nhiều lần nhắc nhở việc thanh toán nợ cho Công ty thì ông H có ký vào biên bản đối chiếu công nợ và xác nhận còn nợ Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I số tiền là 13.180.000đồng; Đồng thời từ ngày xác nhận công nợ cho đến nay phía ông H vẫn chưa thanh toán số nợ trên cho phía Công ty.
Vì vậy, Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất yêu cầu giải quyết số nợ của ông Lương Duy H.
Tại phiên tòa, ông Nguyễn Thanh L - Là người đại diện của Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I yêu cầu ông Lương Duy H phải trả cho Công Ty số tiền 13.180.000đồng. Ngoài ra, không yêu cầu gì thêm.
* Đối với bị đơn Lương Duy H: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã thực hiện tống đạt hợp lệ các thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo về việc trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nH ông H đều vắng mặt và không có ý kiến liên quan đến yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định vụ án này như sau:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Theo nội dung đơn khởi kiện, Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I yêu cầu ông Lương Duy H - Chủ quầy thuốc Duy H phải trả số tiền mua thuốc còn nợ nên đây được xác định là tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa; bị đơn ông Lương Duy H có nơi cư trú tại ấp ấp T, xã Bình Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất theo quy định tại khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015.
[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Lương Duy H đã được triệu tập hợp lệ lần 2 nH vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn tại phiên tòa. [3] Về nội dung vụ án: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định vụ án như sau:
Vào ngày 02/01/2020 Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I/Chi nhánh Kiên Giang có ký kết hợp đồng mua bán số 73/HĐMB-CNKG.2020 với ông Lương Duy H - Chủ quầy thuốc Duy H với nội dung Công ty sẽ bán cho ông H các sản phẩm thuốc do Công ty sản xuất và ông H phải thanh toán cho Công ty đúng giá trị ghi trên hóa đơn bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản.
Thực hiện hợp đồng trên phía Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I đã giao các sản phẩm thuốc cho ông H và xuất hóa đơn vào các ngày 16/3/2020, 17/3/2020 và 20/3/2020; ông H đã nhận hàng đầy đủ nH không thực hiện việc thanh toán tiền cho Công ty đúng theo thỏa thuận.
Đến ngày 06/4/2021 sau nhiều lần nhắc nhở việc thanh toán nợ cho Công ty thì ông H có ký vào biên bản đối chiếu công nợ và xác nhận còn nợ Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I số tiền là 13.180.000đồng và đến nay vẫn chưa thanh toán nên phát sinh tranh chấp.
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng phía Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I có cung cấp cho Tòa án các chứng cứ gồm hợp đồng mua bán số 73/HĐMB-CNKG.2020, hóa đơn bán hàng xuất vào các ngày 16/3/2020, 17/3/2020 và 20/3/2020 và biên bản đối chiếu nợ đề ngày 06/4/2021 do ông Lương Duy H ký tên và ghi họ tên. Các chứng từ này đều thể hiện ông H có nhận các sản phẩm thuốc do Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I cung cấp và biên bản đối chiếu nợ đề ngày 06/4/2021 thể hiện ông H còn nợ số tiền 13.180.000đồng; ông H xác nhận và cam kết trả nợ nH rồi không thực hiện, các chứng cứ trên đều có chữ ký, chữ viết ghi họ tên Lương Duy H.
Trong quá trình giải quyết, Tòa án đã tiến hành đúng các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nH ông H vẫn vắng mặt; Ngày 23/3/2022 Tòa án ban hành Thông báo số 01/2022/TB -TA về việc yêu cầu ông H trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Tuy nhiên khi hết hạn thông báo ông H vẫn không có ý kiến gì nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông H đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại Điều 430 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “ Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán”.
Như vậy, Hợp đồng mua bán giữa Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I và ông Lương Duy H là hoàn toàn tự nguyện, bên bán đã thực hiện nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua, bên mua đã nhận tài sản nH chưa thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền theo thỏa thuận. Do đó, việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả số tiền còn nợ là có căn cứ. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Lương Duy H phải trả cho Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I số tiền 13.180.000đồng.
[4] Về án phí sơ thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án thì ông Lương Duy H phải chịu án phí sơ thẩm có giá ngạch trên số tiền phải trả cho Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I.
Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I không phải chịu án phí sơ thẩm do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 147 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Áp dụng các Điều 430, 440 và khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử :
1/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I.
Buộc ông Lương Duy H phải trả cho Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I số tiền 13.180.000đồng (Mười ba triệu một trăm tám mươi nghìn đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án hợp pháp khoản tiền trên, người phải thi hành án chậm thi hành án thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm thi hành được xác định theo khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.
2/ Về án phí sơ thẩm: Buộc ông Lương Duy H phải chịu án phí sơ thẩm có giá ngạch là 3.000.000đồng.
Hoàn trả cho Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm I số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.000.000đồng theo biên lai thu số 0001443 ngày 01/12/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hòn Đất.
3/. Quyền kháng cáo: Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Lương Duy H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 01/2022/KDTM-ST
Số hiệu: | 01/2022/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hòn Đất - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 11/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về