Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 01/2022/KDTM-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, tỉnh dăk lăk

BẢN ÁN 01/2022/KDTM-ST NGÀY 09/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 09 tháng 03 năm 2022 tại phòng xử án - Toà án nhân dân huyện Ea H’leo, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2021/TLST- DSST, ngày 01 tháng 11 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2022/QĐXXST–DSST, ngày 22 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công Ty Cổ Phần Quốc Tế HD.

Địa chỉ: đường D khu công nghệ RB, xã AT, thị xã BC, tỉnh Bình Dương Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Thanh V – Chức vụ: Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Thanh H – Nhân Viên Công ty Cổ phần Quốc Tế HD – có mặt.

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Hương G.

Địa chỉ: Thôn T, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk – có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Văn Tr (chồng bà G).

Địa chỉ: Thôn T, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk – có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Tại đơn khởi kiện và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Trong năm 2019 hộ kinh doanh Nguyễn Thị Hương G, mua phân bón của Công Ty cổ phần Quốc Tế HD nhiều lần để bán lại cho các hộ dân, nhưng chưa thanh toán đủ tiền cho Công ty. Tính đến ngày 26/4/2021 thì hộ bà Nguyễn Thị Hương G còn thiếu nợ của Công ty 160.000.000đ (một trăm sáu mươi triệu đồng) chưa kể lãi suất. Hai bên thống nhất xác nhận nợ và cam kết thời hạn trả nợ cuối cùng là ngày 02/5/2021. Tuy nhiên đến nay hộ bà Giang vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản tiền hàng còn nợ như đã cam kết.

Vì vậy, Công ty cổ phần Quốc tế HD khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, buộc hộ kinh doanh Nguyễn Thị Hương G phải trả cho Công ty số tiền nợ mua phân bón còn lại là 160.000.000 đồng và khoản lãi suất 1,5% tháng tính từ ngày 01/01/2020 đến nay.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Hương G trình bày:

Năm 2019 gia đình tôi có mua phân bón của Công ty Cổ phần Quốc tế HD về để bán lại cho người dân kiếm lời, chúng tôi đã trả được một phần và đến nay còn thiếu lại của công ty 160.000.000đ và lãi suất như công ty khởi kiện. Tuy nhiên, do tình hình dịch bệnh kéo dài công việc kinh doanh gặp nhiều khó khăn, người dân mua phân nợ chúng tôi không thu hồi được nên chưa có tiền để trả cho công ty.

Nay chúng tôi xin công ty cho chúng tôi được trả dần nhiều đợt trong khoảng thời gian hai năm. Đối với khoản lãi suất thì xin công ty miễn cho chúng tôi.

Ý kiến của ông Trần Văn Tr: Thừa nhận đến nay vợ chồng ông còn nợ của Công ty cổ phần Quốc Tế HD 160.000.000 đồng tiền gốc và xin được trả dần làm nhiều lần còn khoản lãi suất thì xin công ty xem xét miễn cho vợ chồng ông.

Các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp: Hợp đồng đại lý số 48- 05/2019/HDĐL –CTHD ngày 20/02/2019; Phụ lục hợp đồng số 01/2019/PLHĐ- CTHD ngày 20/02/2019; Sổ giao hàng; Thư xác nhận công nợ (các tài liệu này đều là bản phô tô); Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty Cổ phần Quốc Tế HD (bản phô tô có công chứng);

Các tài liệu chứng cứ bị đơn cung cấp: không có Các tài liệu chứng cứ do tòa án thu thập: Bản tự khai của ông Lê Thanh H (đại diện theo ủy quyền của Công ty Cổ phần Quốc Tế HD); Bản tự khai của bà Nguyễn Thị Hương G và của ông Trần Văn Tr; Giấy phép đăng ký kinh doanh của hộ bà Nguyễn Thị Hương G.

Qúa trình giải quyết vụ kiện, cũng như tại phiên tòa các bên đương sự đều thống nhất khoản nợ nhưng không thống nhất được phương thức và thời hạn thanh toán.

* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử: Tòa án thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, xác định quan hệ pháp luật “tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” thuộc loại án Kinh doanh thương mại là đúng pháp luật, xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự; việc thu thập chứng cứ đảm bảo đúng trình tự qui định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự thủ tục và chức năng nhiệm vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do các đương sự cung cấp và quá trình xác minh thu thập của Tòa án. Kết quả tranh tụng, hỏi và tranh luận tại phiên tòa cho thấy: Trong năm 2019 hộ kinh doanh Nguyễn Thị Hương G có mua phân bón của Công ty Cổ phần Quốc tế HD và còn nợ lại số tiền gốc là 160.000.000đ tiền gốc, hai bên đã xác nhận công nợ và cam kết thời hạn trả nợ vào ngày 02/5/2021 nhưng đến nay vẫn không trả. Do vậy yêu cầu khởi kiện nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần Quốc tế HD.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Mặc dù đầu đề của hợp đồng được ký giữa Công ty Cổ phần Quốc Tế HD với Hộ kinh doanh Nguyễn Thị Hương G là hợp đồng đại lý nhưng bản chất là hợp đồng mua bán hàng hóa. Hộ bà Nguyễn Thị Hương G mua phân bón của công ty để bán lại kiếm lời, nên xác định là “hợp đồng mua bán hàng hóa”, cả nguyên đơn và bị đơn đều có đăng ký kinh doanh và việc mua bán phân bón này là vì mục đích lợi nhuận nên thuộc loại án Kinh doanh thương mại, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo, theo quy định tại khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Trong năm 2019 hộ kinh doanh bà Nguyễn Thị Hương G mua phân bón của Công ty Cổ Phần Quốc Tế HD để bán lại cho người dân. Tính đến ngày 26/4/2021 hai bên chốt lại công nợ thì bà Nguyễn Thị Hương G còn nợ lại công ty 160.000.000đ tiền mua phân bón, hai bên thỏa thuận thời hạn trả vào ngày 02/5/2021. Tuy nhiên từ đó đến nay hộ bà Nguyễn Thị Hương G không trả cho công ty được khoản nào. Như vậy, hộ bà G đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng và theo cam kết đã ký làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của Công ty Cổ phần Quốc tế HD. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của công ty là có căn cứ.

Về yêu cầu tính lãi suất: Tại mục 1.4 điều 3 của bản hợp đồng số 48- 05/2019/HDĐL –CTHD ngày 20/02/2019 được ký kết giữ bà Nguyễn Thị Hương G với Công ty cổ phần Quốc Tế HD quy định: Trường hợp bên B không thực hiện nghĩa vụ thanh toán đúng thời hạn quy định thì sẽ phải chịu lãi phạt 0.05%/ngày tương đương 1,5%/tháng tính trên từng đơn hàng. Trường hợp bên B tiếp tục vi phạm hợp đồng kéo dài hạn thanh toán sang ngày thứ 31 thì mức lãi suất được tính là 0.06%/ngày tương đương 2%/tháng. Theo sổ giao hàng và theo dõi công nợ thì lần giao dịch mua bán phân bón cuối cùng giữa công ty với bà Nguyễn Thị Hương G là vào ngày 20/9/2019 tại thời điểm này số tiền nợ phân bón còn lại là 200.000.000đ sau đó thì trả dần đến ngày 08/01/2021 còn lại 160.000.000đ nhưng Công ty cổ phần Quốc tế HD chỉ yêu cầu tính lãi từ 01/01/2020 trên số tiền 160.000.000đ theo mức 1,5%/tháng là phù hợp nên chấp nhận.

Việc kinh doanh của bà Nguyễn Thị Hương G là phục vụ cho lợi ích kinh tế chung của gia đình, nên cần buộc bà Nguyễn Thị Hương G và ông Trần Văn Tr (chồng bà G) phải thanh toán cho Công ty Cổ phần Quốc Tế HD số tiền nợ do mua phân bón còn lại là 160.000.000đ và khoản tiền lãi tính từ ngày 01/01/2020 đến ngày 09/3/2022 là 160.000.000đx1,5%tháng x 26 tháng 09 ngày = 63.120.000đ tiền lãi tính đến 09/3/2022.

[3] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Hương G và ông Trần Văn Tr phải nộp 11.156.000đ (mười một triệu một trăm năm mươi sáu nghìn đồng).

Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên Công Ty Cổ Phần Quốc Tế HD không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Các Điều 24;50; 306 Luật thương mại; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ Phần Quốc Tế Hải Dương.

Buộc ông bà Nguyễn Thị Hương G, Trần Văn Tr phải thanh toán cho Công ty Cổ Phần Quốc tế HD số tiền mua phân bón còn nợ là 160.000.000 đồng (một trăm sáu mươi triệu đồng) và 63.120.000 đồng (sáu mươi ba triệu một trăm hai mươi nghìn đồng). Tổng cộng là 223.120.000 đồng (hai trăm hai mươi ba triệu một trăm hai mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất 10%/năm tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị Hương G và ông Trần Văn Tr phải nộp 11.156.000 đồng (mười một triệu một trăm năm mươi sáu nghìn đồng) án phí KDTM sơ thẩm.

Trả lại cho Công Ty Cổ phần Quốc tế HD 5.432.000 đồng (năm triệu bốn trăm ba mươi hai nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí KDTM sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0000555 ngày 18/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

415
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 01/2022/KDTM-ST

Số hiệu:01/2022/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành:09/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về