Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán (do nợ tiền thức ăn nuôi tôm) số 290/2023/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU 

BẢN ÁN 290/2023/DS-PT NGÀY 29/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Ngày 29 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 268/2023/TLPT-DS ngày 18 tháng 7 năm 2023 về việc: “Tranh chấp hợp đồng mua bán”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 169/2023/DS-ST ngày 06 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 285/2023/QĐ-PT ngày 01 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Bé N, sinh năm 1973.

Bà Phù Thị P, sinh năm 1972. Cùng địa chỉ: Ấp 2, xã T, huyện T, tỉnh C ..

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1971 (có mặt).

Địa chỉ: Khóm 1, thị t, huyện T, tỉnh C ..

- Bị đơn: Ông Nguyễn Như Y, sinh năm 1993 (vắng mặt).

Bà Lê Thị L, sinh năm 1960 (có mặt). Cùng địa chỉ: Ấp V, xã P, huyện T, tỉnh C ..

- Người kháng cáo: Bà Lê Thị L và ông Nguyễn Như Y là bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Nguyên đơn, ông Nguyễn Bé N và bà Phù Thị P trình bày: Ông, bà có bán thức ăn và thuốc thuỷ sản cho ông Nguyễn Như Y và bà Lê Thị L để ông Y và bà L nuôi tôm công nghiệp trên phần đất của gia đình bà L và ông Y từ tháng 3/2017.

Đã qua ông Y và bà L đã thanh toán nhiều lần, đến ngày 01/01/2019 ông Y và bà L còn nợ lại là 285.000.000 đồng nên ông Y kí nhận nợ và cam kết đến ngày 01/01/2022 sẽ trả nhưng không thực hiện. Nay ông N và bà P yêu cầu Tòa án giải quyết, buộc ông Y và bà L trả số tiền 285.000.000 đồng và tiền lãi chậm trả 14 tháng từ ngày 01/01/2022 với lãi suất 0,83%/tháng x 14 tháng bằng 33.117.000 đồng. Tổng số tiền là 318.117.000 đồng.

- Bị đơn, ông Nguyễn Như Y và bà Lê Thị L trình bày: Ông Nguyễn Như Y thừa nhận có mua thức ăn nuôi tôm của ông N và bà P để nuôi tôm trên phần đất của cha mẹ ông là bà L và ông Tâm từ năm 2017 đến năm 2019. Đã qua, ông Y đã trả còn nợ ông N và bà P số tiền 285.000.000 đồng nên ông Y đã ký cam kết trả nợ với ông N và bà P. Do đây là giao dịch giữa ông Y với ông N và bà P, còn bà L không có liên quan trong giao dịch mua bán thức ăn nuôi tôm. Nay ông Y đồng ý trả nợ, bà L không đồng ý cùng ông Y liên đới trả nợ cho ông N và bà P.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 169/2023/DS-ST ngày 06 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời quyết định:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Bé N và bà Phù Thị P. Buộc bà Lê Thị L và ông Nguyễn Như Y có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Nguyễn Bé N và bà Phù Thị P số tiền 318.117.000 đồng.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 21/6/2023 bị đơn là bà Lê Thị L và ông Nguyễn Như Y kháng cáo yêu cầu sửa án sơ thẩm theo hướng buộc ông Y có trách nhiệm trả nợ cho ông N, bà Phil số tiền 318.117.000 đồng, không buộc bà L cùng có trách nhiệm liên đới trả nợ cùng ông Y.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Ông Y vắng mặt không có lý do.

Bà L giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và tranh luận cho rằng: Ông Y trực tiếp kí nhận nợ nên ông Y phải có trách nhiệm trả nợ cho ông N và bà P.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử Đình chỉ yêu cầu kháng cáo của ông Y. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà L. Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, sửa bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Ông Nguyễn Như Y được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt thì coi như từ bỏ việc kháng cáo nên Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông Y.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Lê Thị L, Hội đồng xét xử xét thấy: Bà Lê Thị L cho rằng việc ông Y mua thức ăn nuôi tôm của ông N và bà P còn nợ là 285.000.000 đồng là nợ của ông Y do ông Y ký nhận nợ, bà L chỉ cho cho ông Y mượn đất để nuôi tôm vì ông Y đã ra ở riêng, nhưng bà L không có chứng cứ chứng minh việc cho ông Y mượn đất để nuôi tôm. Bà L cũng không có chứng cứ chứng minh việc ông Y đã cất nhà ra ở riêng và không liên quan đến bà L trong việc mua thức ăn nuôi tôm trên phần đất của bà L. Tại hồ sơ thể hiện việc ông Y mua thức ăn nuôi tôm trên phần đất của vợ chồng bà L là do ông Y là con đang sống chung nhà với bà L, sổ ghi nợ của ông N và bà P ghi nợ khi ông Y mua thức ăn nuôi tôm từ năm 2017 đến năm 2019 đều ghi tên “chị 6 Tâm”. Ông Nguyễn Văn Tâm là chồng bà L và là cha của ông Y. Bà L cũng thừa nhận có nhiều lần bà cùng với ông Y đến nhà ông N và bà P để trả tiền mua thức ăn nuôi tôm và thuốc thủy sản. Đồng thời, có nhiều người cùng mua thức ăn chung với ông Y và bà L cũng đã chứng kiến và xác nhận bà L và ông Y cùng mua thức ăn nuôi tôm trên phần đất của bà L như ông Nguyễn Minh Trí, ông Ngô Tấn Truyền, ông Huỳnh Ngọc Cẩn và ông Nguyễn Văn Bi. Do đó, có cơ sở xác định bà L cùng với ông Y có mua thức ăn nuôi tôm và thuốc thủy sản của ông N và bà P để nuôi tôm trên phần đất của bà L. Do đó số nợ 285.000.000 đồng do ông Y ký nhận nợ với ông N và bà P là nợ của ông Y và bà L. Đã qua ông Y và bà L không thực hiện việc trả nợ nên ông N và bà P yêu cầu ông Y và bà L phải liên đới trả số tiền nợ 285.000.000 đồng và khoản tiền lãi từ 01/01/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm là 14 tháng với số tiền 33.117.000 đồng là có cơ sở.

Bản án sơ thẩm Quyết định buộc bà L và ông Y có nghĩa vụ liên đới trả nợ cho ông N và bà P tổng số tiền 318.117.000 đồng là phù hợp.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, bà L không có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của bà L nên không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tại phiên tòa là không phù hợp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Lê Thị L được miễn theo quy định do bà L là người cao tuổi. Ông Nguyễn Như Y phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 2 Điều 312 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Như Y.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Lê Thị L.

Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 169/2023/DS-ST ngày 06 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Bé N và bà Phù Thị P.

Buộc bà Lê Thị L và ông Nguyễn Như Y có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Nguyễn Bé N và bà Phù Thị P số tiền 318.117.000 đồng (Ba trăm mười tám triệu một trăm mười bảy nghìn đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành xong khoản tiền phải thanh toán thì còn phải chịu thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.

Án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Nguyễn Như Y và bà Lê Thị L phải chịu 15.905.850 đồng.

Ông Nguyễn Bé N và bà Phù Thị P không phải chịu án phí. Đã qua, ông N và bà P có nộp tạm ứng án phí sơ thẩm 7.953.000 đồng tại biên lai thu số 0006144 ngày 08 tháng 02 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau được nhận lại.

Án phí dân sự phúc thẩm:

Bà Lê Thị L được miễn theo quy định.

Ông Nguyễn Như Y phải chịu 300.000 đồng. Đã qua, ông Y có dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0006926 ngày 21/6/2023 Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau được chuyển thu.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các quyết định khác không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán (do nợ tiền thức ăn nuôi tôm) số 290/2023/DS-PT

Số hiệu:290/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về