TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 114/2023/KDTM-ST NGÀY 20/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN ĐIỆN
Ngày 20 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 65/2023/TLST-KDTM ngày 19 tháng 4 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán điện” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 300/2023/QĐXXST-KDTM ngày 01 tháng 8 năm 2023; Quyết định hoãn phiên toà số 226/2023/QĐST-KDTM ngày 28 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Tổng Công ty Điện lực T Trụ sở: Số 35 T, phường B, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Lê Khắc Q, sinh năm 1980 (Giấy ủy quyền số 1088/UQ-PCTT ngày 12/9/2022 của Chi nhánh Tổng Công ty Điện lực T – Công ty Điện lực Tân T).
Địa chỉ: Số 62 đường Lê Quốc H, Phường 13, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bị đơn: Hộ kinh doanh Cà phê J Địa chỉ kinh doanh: Số 18/1B đường H, phường T, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện Hộ kinh doanh Cà phê J: Bà Lê Thị N, sinh năm 1983 (theo Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 41G8 024481 đăng ký lần đầu ngày 13/10/2014 do Ủy ban nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh cấp) Địa chỉ: Số 418/26 đường H, Phường 16, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.
(ông Lê Khắc Q có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bà Lê Thị N vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại Đơn khởi kiện ngày 22/9/2022 của Tổng Công ty Điện lực T (sau đây viết tắt là Tổng Công ty Điện lực) và quá trình giải quyết vụ án ông Lê Khắc Q là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 31/08/2019, Chi nhánh Tổng Công ty Điện lực T - Công ty Điện lực Tân T có ký hợp đồng số 19/001358 về việc mua bán điện phục vụ mục đích kinh doanh dịch vụ với Hộ kinh doanh Cà Phê J, người đại diện là bà Lê Thị N.
Quá trình thực hiện hợp đồng, bà Lê Thị N là người đại diện Hộ kinh doanh Cà phê J đã thanh toán đầy đủ và đúng hạn tiền điện sử dụng hàng tháng. Tuy nhiên, từ các tháng 09, 10, 11 năm 2020 đến nay bà Lê Thị N đã không thanh toán tiền điện đúng hạn theo họp đồng đã ký nêu trên, còn nợ tiền điện tổng số tiền là 12.082.364 đồng (theo 03 hóa đơn gồm: Hóa đơn số 5255743 sử dụng điện từ ngày 15/08/2020 đến 14/09/2020, số tiền 11.618.801 đồng; Hóa đơn số 5425886 sử dụng điện từ ngày 15/09/2020 đến 14/10/2020, số tiền 135.091 đồng và Hóa đơn số 5596504 sử dụng điện từ ngày 15/10/2020 đến 14/11/2020, số tiền 328.472 đồng).
Do bà Lê Thị N là người đại diện Hộ kinh doanh Cà phê J vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền điện theo hợp đồng đã ký nêu trên, nên Tổng Công ty Điện lực yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Hộ kinh doanh Cà phê J do bà Lê Thị N là người đại diện phải thanh toán đủ số tiền điện còn nợ là 12.082.364 đồng cho Tổng Công ty Điện lực. Trả một lần ngay khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Đối với bị đơn là Hộ kinh doanh Cà phê J: Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho bà Lê Thị N là người đại diện Hộ kinh doanh Cà phê J thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập đương sự đến Tòa án để trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của Tổng Công ty Điện lực; giấy triệu tập đương sự và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (lần 2), nhưng bà N vẫn không có mặt theo giấy triệu tập, nên Tòa án không tiến hành hòa giải được và bà N cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của Tổng Công ty Điện lực.
Tại phiên tòa hôm nay:
- Ông Lê Khắc Q là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vắng mặt do có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Về phía bị đơn: Bà Lê Thị N là người đại diện Hộ kinh doanh Cà Phê J đã được Tòa án đã triệu tập lần 2, nhưng vắng mặt không lý do.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát:
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Việc xác định tư cách tham gia tố tụng; xác minh, thu thập chứng cứ, giao nhận chứng cứ, giao nhận thông báo thụ lý vụ án đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng các quy định chung về phiên tòa sơ thẩm, thủ tục bắt đầu phiên tòa, đảm bảo việc tranh tụng tại phiên tòa theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn thực hiện đúng quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 85 và Điều 86 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Bị đơn không thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
- Về việc giải quyết vụ án:
Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Về án phí: Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm về kinh doanh, thương mại đối với yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận. Hoàn trả tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp giữa Tổng Công ty Điện lực và Hộ kinh doanh Cà phê J do bà Lê Thị N là người đại diện phát sinh từ Hợp đồng mua bán điện số 19/001358; mã khách hàng: PE05000177199-10JK450-A ngày 31/8/2019. Xét đây là vụ án tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá, phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại. Bị đơn là Hộ kinh doanh Cà phê J có địa chỉ kinh doanh tại Quận 7. Theo quy định tại khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Về sự có mặt của đương sự: Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Lê Khắc Q có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Về phía bị đơn, bà Lê Thị N là người đại diện Hộ kinh doanh Cà phê J vắng mặt không có lý do, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập tham gia phiên tòa. Căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[3] Về áp dụng pháp luật nội dung:
[3.1] Đối với yêu cầu khởi kiện của Tổng Công ty Điện lực yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Hộ kinh doanh Cà phê J do bà Lê Thị N là người đại diện phải trả đủ số tiền điện còn nợ của 03 hoá đơn là 12.082.364 đồng cho Tổng Công ty Điện lực. Trả một lần ngay khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy:
[3.2] Căn cứ các Hóa đơn số 5255743, kỳ hóa đơn tháng 9/2020 Hộ kinh doanh Cà phê J sử dụng điện từ ngày 15/08/2020 đến 14/09/2020, số tiền 11.618.801 đồng; Hóa đơn số 5425886, kỳ hóa đơn tháng 10/2020 Hộ kinh doanh Cà phê J sử dụng điện từ ngày 15/09/2020 đến 14/10/2020, số tiền 135.091 đồng và Hóa đơn số 5596504, kỳ hóa đơn tháng 11/2020 Hộ kinh doanh Cà phê J sử dụng điện từ ngày 15/10/2020 đến 14/11/2020, số tiền 328.472 đồng. Như vậy, có đủ cơ sở xác định Hộ kinh doanh Cà phê J có sử dụng điện và còn nợ tiền điện của 03 hoá đơn như đã nêu trên với tổng số tiền là 12.082.364 đồng. Tại khoản 1 Điều 23 Luật Điện lực năm 2012 quy định thanh toán tiền điện: “1. Bên mua điện phải thanh toán đủ và đúng thời hạn số tiền điện ghi trong hóa đơn cho bên bán điện theo biểu giá điện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Tiền điện được thanh toán tại trụ sở, nơi ở của bên mua điện hoặc tại địa điểm thuận lợi do hai bên thoả thuận trong hợp đồng mua bán điện….”. Do đó, yêu cầu của Tổng Công ty Điện lực là có căn cứ được chấp nhận.
[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của Tổng công ty Điện lực được chấp nhận, nên Hộ kinh doanh Cà phê J do bà Lê Thị N là người đại diện phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về kinh doanh, thương mại số tiền là 3.000.000 đồng, theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 khoản 1 Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ vào các Điều 24 và Điều 50 Luật Thương mại;
- Căn cứ vào các Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 22, Điều 23 và khoản 2 Điều 46 Luật Điện lực sửa đổi, bổ sung năm 2012.
- Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014;
- Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu của Tổng Công ty Điện lực T.
Buộc Hộ kinh doanh Cà phê J do bà Lê Thị N là người đại diện phải trả cho Tổng Công ty Điện lực T tổng số tiền điện còn nợ là 12.082.364 (mười hai triệu không trăm tám mươi hai ngàn ba trăm sáu mươi bốn) đồng (theo 03 Hóa đơn số 5255743, kỳ hóa đơn tháng 9/2020; Hóa đơn số 5425886, kỳ hóa đơn tháng 10/2020 và Hóa đơn số 5596504, kỳ hóa đơn tháng 11/2020). Trả một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Các bên đương sự thi hành bản án tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của Tổng Công ty Điện lực T cho đến khi thi hành án xong khoản tiền phải trả cho Tổng Công ty Điện lực T nêu trên, hàng tháng Hộ kinh doanh Cà phê J do bà Lê Thị N là người đại diện còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Về án phí: Hộ kinh doanh Cà phê J do bà Lê Thị N là người đại diện chịu án phí dân sự sơ thẩm về kinh doanh, thương mại số tiền là 3.000.000 (ba triệu) đồng.
Hoàn trả lại cho Tổng Công ty Điện lực T tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.000.000 (ba triệu) đồng, theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0015844 ngày 19/4/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo bản án sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh có quyền kháng nghị bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán điện số 114/2023/KDTM-ST
Số hiệu: | 114/2023/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 20/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về