Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phần số 10/2023/KDTM–ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 10/2023/KDTM–ST NGÀY 26/07/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN CỔ PHẦN

Trong ngày 26 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 11/2021/TLST-KDTM ngày 16 tháng 7 năm 2021 về “Tranh chấp yêu cầu xác định tỷ lệ phần vốn góp và yêu cầu huỷ bỏ Quyết định của Hội đồng thành viên” Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 103/2023/QĐXX-ST ngày 01 tháng 6 năm 2023 giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Bà Lê Thị L - Chức vụ: Giám đốc Công ty TNHH BCHA Địa chỉ: Số nhà 17 đường QT, Thị trấn TBH, huyện HA, tỉnh BĐ.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Bùi Văn Ph – Văn phòng Luật sư PL thuộc đoàn Luật sư tỉnh Bình Định; địa chỉ: 654 NTH, thành phố QN, BĐ.

- Bị đơn: Ông Lê Gia Ph Địa chỉ: 2/11 NT, phường 13, quận TB, thành phố HCM.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Công ty TNHH BCHA Địa chỉ: Đội 4, thôn KT, xã A Đ, huyện HA, BĐ Đại diện theo pháp luật: Bà Lê Thị L – Giám đốc.

2. Ông Hoàng C, Địa chỉ: 17 QT, thị trấn TBH, huyện HA, tỉnh BĐ;

3. Ông Nguyễn Thành Tr Địa chỉ: Thôn PhKH, xã ATT, huyện HA, tỉnh BĐ;

4. Ông Trần Văn H Địa chỉ: Thôn KhT, xã A Đ, huyện HA, tỉnh BĐ;

5. Ông Nguyễn Thanh V Địa chỉ: Đội 7, thôn PT, xã A Đ, huyện HA, BĐ;

6. Bà Nguyễn Thị D Địa chỉ: Đường TĐC, khu phố GC 2, thị trấn TBH, huyện HA, tỉnh BĐ Đại diện theo uỷ quyền của ông Nguyễn Thành Tr, ông Trần Văn H, ông Nguyễn Thanh V, bà Nguyễn Thị D là ông Lê Gia Ph; địa chỉ: 2/11 NT, phường 13, quận TB, thành phố HCM.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Lê Thị L trình bày:

Công ty TNHH BCHA (gọi tắt là Công ty BCHA) được thành lập vào năm 2016. Mục đích kinh doanh là chăn nuôi lợn. Theo giấy phép đăng ký kinh doanh thì các thành viên đóng góp vốn cụ thể như sau:

1. Bà Lê Thị L: 3.000.000.000đồng;

2. Ông Hoàng C: 1.000.000.000đồng;

3. Ông Lê Gia Ph: 3.411.000.000đồng;

4. Ông Nguyễn Thanh V: 433.000.000đồng;

5. Ông Nguyễn Thành Tr: 373.000.000đồng;

6. Bà Nguyễn Thị D: 433.000.000đồng;

7. Ông Trần Văn H: 350.000.000đồng.

Căn cứ theo giấy xác nhận vốn góp số 01/2019/GCN-VG (lần 1) ngày 06/11/2019 và Biên bản họp hội đồng thành viên của công ty ngày 27/3/2021 về việc xác định tỷ lệ vốn góp thực tế của các thành viên như sau:

Bà L đã góp đủ số tiền 3.000.000.000đồng, chiếm tỷ lệ 33,33%, được bổ nhiệm là Giám đốc công ty. Sau đó, bà đã góp vốn bổ sung để phát triển công ty với số tiền là 29.948.180.000đồng theo số liệu kết toán báo cáo. Tổng số tiền thực tế bà L đã góp là 32.948.180.000đồng. Tỷ lệ vốn góp đạt tỷ lệ 90,41%.

Các thành viên khác của công ty cũng đã góp đủ số vốn theo như giấy phép đăng ký kinh doanh. Riêng đối với ông Lê Gia Ph, tính đến hết ngày 31/12/2020 thì chỉ góp số tiền 826.000.000đồng, chiếm tỷ lệ 2,27%.

Sau đó, bà L đã nhiều lần đề nghị cơ cấu lại vốn góp thực tế của các thành viên theo đúng quy định nhưng các thành viên không hợp tác.

Trong quá trình hoạt động, vì dịch tả lợn Châu Phi bùng phát nên tình hình kinh doanh của công ty gặp nhiều khó khăn. Tính đến hết ngày 31/12/2020, theo số liệu báo cáo thuế của kế toán thì công ty lỗ 5.393.228.407đồng. Vì vậy, ông Ph và các thành viên khác trong công ty đã miễn nhiệm chức vụ Giám đốc của bà nhưng không thực hiện đúng theo quy định của Luật doanh nghiệp.

Vì vậy, bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết xác định và công nhận phần vốn góp thực tế của từng thành viên trong công ty tính theo tỷ lệ vốn góp đã đăng ký theo giấy phép đăng ký kinh doanh của công ty.

Yêu cầu hủy Quyết định của Hội đồng thành viên số 06/2021/QĐ-HĐTV ngày 01/4/2021 của Công ty BCHA về việc miễn nhiệm chức vụ giám đốc đối với bà L và hủy quyết định số 07/2021/QĐ-HĐTV ngày 01/4/2021 của công ty về việc quản lý, sử dụng và trách nhiệm của người quản lý con dấu theo đúng quy định pháp luật.

Bị đơn ông Lê Gia Ph trình bày:

Công ty thành lập năm 2016, hoạt động chính trong lĩnh vực chăn nuôi lợn tại huyện Hoài Ân. Hội đồng thành viên gồm 07 người:

1. Bà Lê Thị L: 3.000.000.000đồng, chiếm tỷ lệ 33,33%;

2. Ông Hoàng C: 1.000.000.000đồng, chiếm tỷ lệ 11,11%;

3. Ông Lê Gia Ph: 3.411.000.000đồng, chiếm tỷ lệ 37,9%;

4. Ông Nguyễn Thanh V: 433.000.000đồng; chiếm tỷ lệ 4,811%;

5. Ông Nguyễn Thành Tr: 373.000.000đồng; chiếm tỷ lệ 4,14%;

6. Bà Nguyễn Thị D: 433.000.000đồng; chiếm tỷ lệ 4,811%;

7. Ông Trần Văn H: 350.000.000đồng; chiếm tỷ lệ 3,889%.

Trong quá trình hoạt động, theo báo cáo của bà L thì công ty bị thua lỗ. Ông và các thành viên còn lại của công ty đề nghị thực hiện kiểm toán nhưng bà Liễu không đồng ý.

Đến ngày 24/9/2020, Hội đồng thành viên tổ chức cuộc họp và lập biên bản có đủ chữ ký của 07 của thành viên với nội dung: Bà L tiếp tục giữ chức vụ Giám đốc thêm 03 tháng từ ngày 01/10/2020 đến hết 31/12/2020. Trong thời gian 03 tháng, mọi hoạt động kinh doanh, đầu tư của doanh nghiệp phải lấy ý kiến của tất cả thành viên công ty. Trong thời gian này, Hội đồng thành viên có trách nhiệm tuyển nhân sự mới giữ chức vụ Giám đốc điều hành. Sau đó, công ty đã thuê công ty Trí Thức Việt thực hiện kiểm toán. Mọi hoạt động kiểm toán đã xong nhưng bà L không công bố kết quả cho công ty biết.

Ngày 27/3/2021, công ty họp hội đồng thành viên. Tuy nhiên, các thành viên trong cuộc họp không thống nhất nên vào lúc 11 giờ 20 phút, ngày 27/3/2020, tại nhà khách Đồng Đội, 06 thành viên trừ bà L đã căn cứ nội dung biên bản lập ngày 24/9/2020, miễn nhiệm chức vụ Giám đốc của bà L. Sau đó, ông đã triệu tập nhiều cuộc họp nhưng bà L không tham gia và đóng cửa công ty không cho các thành viên còn lại vào họp. Vì vậy, việc bà L không thực hiện các nghị quyết, quyết định của hội đồng thành viên, không công bố kết quả kiểm toán là không đúng quy định của pháp luật.

Vì vậy, ông không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:

- Đại diện theo pháp luật của công ty BCHA, bà Lê Thị L trình bày: Thống nhất như lời trình bày của nguyên đơn.

- Ông Hoàng C trình bày: Thống nhất như lời trình bày của nguyên đơn và khẳng định không tham gia vào cuộc họp liên quan đến việc miễn nhiệm chức vụ Giám đốc đối với bà L.

- Ông Nguyễn Thanh V, ông Nguyễn Thành Tr, ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị D đồng trình bày: Thống nhất như lời trình bày của bị đơn, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: Trong quá trình tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa để thu thập lời khai của các thành viên trong công ty nhằm xác định lại số vốn góp của các thành viên trong công ty; hủy Quyết định số 06/2021/QĐ-HĐTV ngày 01/04/2021 về việc miễn nhiệm chức vụ Giám đốc của bà Lê Thị L và Quyết định số 07/2021/QĐ-HĐTV ngày 01/04/2021 về việc quản lý, sử dụng và trách nhiệm của người quản lý con dấu của Hội đồng thành viên Công ty trách nhiệm hữu hạn BCHA NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN :

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Theo đơn khởi kiện ngày 28/6/2021, ngày 16/6/2021, nguyên đơn bà Lê Thị L khởi kiện yêu cầu xác định giá trị phần vốn góp của ông Lê Gia Phtại Công ty trách nhiệm hữu hạn BCHA (gọi tắt là Công ty BCHA) theo giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên đăng ký lần đầu ngày 24 tháng 02 năm 2016, đăng ký thay đổi lần thứ 5 ngày 31 tháng 3 năm 2020.

Theo đơn khởi kiện bổ sung ngày 11/12/2021, bà L khởi kiện yêu cầu xác định giá trị phần vốn góp của 07 thành viên công ty BCHA theo giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên đăng ký lần đầu ngày 24 tháng 02 năm 2016, đăng ký thay đổi lần thứ 5 ngày 31 tháng 3 năm 2020. Yêu cầu xác định giá trị phần vốn góp thêm của bà Lê Thị L tại công ty BCHA và yêu cầu huỷ Quyết định của Hội đồng thành viên số 06/2021/QĐ-HĐTV ngày 01/04/2021 và Quyết định số 07/2021/QĐ-HĐTV ngày 01/04/2021 của Hội đồng thành viên Công ty BCHA.

Tuy nhiên, đến ngày 27/6/2023, bà Lê Thị L đã có đơn tự nguyện xin rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu Toà án giải quyết xác định giá trị phần vốn góp thêm của bà Lê Thị L tại công ty BCHA. Hội đồng xét xử thấy rằng: Việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tự nguyện, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với yêu cầu nêu trên.

[2] Về quan hệ pháp luật: Theo thông báo thụ lý vụ án xác định quan hệ pháp luật là: “ Tranh chấp góp vốn thành viên công ty ” nhưng trong quá trình giải quyết vụ án bà L có đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu xác định giá trị phần vốn góp của 07 thành viên công ty BCHA, xác định giá trị phần vốn góp thêm của bà Lê Thị L tại Công ty BCHA, đồng thời yêu cầu huỷ Quyết định của Hội đồng thành viên số 06/2021/QĐ-HĐTV ngày 01/04/2021 và Quyết định số 07/2021/QĐ- HĐTV ngày 01/04/2021 của Hội đồng thành viên Công ty BCHA nên Hội đồng xét xử xác định lại quan hệ pháp luật là “Tranh chấp yêu cầu xác định tỷ lệ phần vốn góp và yêu cầu huỷ bỏ Quyết định của Hội đồng thành viên” [3] Về nội dung:

[3.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc xác định tỷ lệ phần vốn góp của các thành viên trong Công ty TNHH BCHA. Hội đồng xét xử thấy rằng:

[3.1.1] Theo giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên đăng ký lần đầu ngày 24 tháng 02 năm 2016, đăng ký thay đổi lần thứ 5 ngày 31 tháng 3 năm 2020, thì Công ty trách nhiệm hữu hạn BCHA (gọi tắt là Công ty BCHA) có 07 thành viên góp vốn như sau: Ông Lê Gia Ph góp vốn 3.411.000.000đồng, bà Lê Thị L góp vốn 3.000.000.000đồng, ông Hoàng C góp vốn 1.000.000.000đồng, bà Nguyễn Thị D góp vốn 433.000.000đồng, ông Nguyễn Thanh V góp vốn 433.000.000đồng, ông Nguyễn Thành Tr góp vốn 373.000.000đồng, ông Trần Văn H góp vốn 350.000.000đồng. Tổng số vốn điều lệ là 9.000.000.000đồng.

[3.1.2] Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, bị đơn, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều thống nhất khai quá trình góp vốn của các thành viên trong công ty hiện nay cụ thể như sau: Bà Nguyễn Thị D góp 513.000.000 đồng, ông Nguyễn Thanh V góp 433.000.000đồng, ông Nguyễn Thành Tr góp 373.000.000đồng, ông Trần Văn H góp 350.000.000đồng, ông Lê Gia Ph góp 816.000.000đồng. Sự việc này các bên đương sự khai thống nhất nên không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3.1.3] Đối với việc bà Lê Thị L và ông Hoàng C đều khai bà L và ông C đã góp đủ số vốn điều lệ theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ngày 31 tháng 3 năm 2020, nhưng ông Lê Gia Ph không đồng ý vì ông cho rằng việc bà L, ông C góp vốn vào công ty không có báo cáo, không có chứng từ nên không công nhận bà L, ông C có góp vốn vào Công ty BCHA. Hội đồng xét xử thấy rằng: Căn cứ theo giấy xác nhận vốn góp, cấp lần 1 ngày 06/11/2019 của bà Lê Thị L và ông Hoàng C (BL số 238), phiếu thu tài khoản tại ngân hàng và Biên bản đối chất ngày 05/12/2022, ông Nguyễn Thành V cũng đã xác nhận bà L đã góp đủ vốn là 3.000.000.000đồng, ông C góp vốn 1.000.000.000đồng theo đúng như giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ngày 31/3/2020. Vì vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định bà Lê Thị L đã góp đủ số vốn là 3.000.000.000đồng, ông Hoàng C đã góp đủ số vốn là 1.000.000.000đồng theo giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ngày 31/3/2020.

[3.1.4] Từ những phân tích tại mục [3.1.1], mục [3.1.2] và mục [3.1.3] nêu trên thì có đủ cơ sở xác định Công ty BCHA có tổng số vốn góp là 6.485.000.000đồng so với số vốn điều lệ của Công ty theo giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ngày 31/3/2020 là 9.000.000.000đồng, trong đó: Giá trị vốn góp của 07 thành viên trong công ty như sau:

Bà Lê Thị L có phần vốn góp là 3.000.000.000đồng, chiếm tỷ lệ 46,26% (3.000.000.000đồng: 6.485.000.000đồng x 100 = 46,26%);

Ông Hoàng C có phần vốn góp là 1.000.000.000đồng; chiếm tỷ lệ 15,42% (1.000.000.000đồng : 6.485.000.000đồng x 100 = 15,42%);

Bà Nguyễn Thị D có phần vốn góp là 513.000.000đồng; chiếm tỷ lệ 7,91% (513.000.000đồng : 6.485.000.000đồng x 100 = 7,91%);

Ông Nguyễn Thanh Vương có phần vốn góp là 433.000.000đồng; chiếm tỷ lệ 6,67% (433.000.000đồng : 6.485.000.000đồng x 100 = 6,67%);

Ông Nguyễn Thành Tr có phần vốn góp là 373.000.000đồng; chiếm tỷ lệ 5,75% (373.000.000đồng : 6.485.000.000đồng x 100 = 5,75%);

Ông Trần Văn H có phần vốn góp là 350.000.000đồng; chiếm tỷ lệ 5,39% (350.000.000đồng : 6.485.000.000đồng x 100 = 5,39%);

Ông Lê Gia Ph có phần vốn góp là 816.000.000đồng, chiếm tỷ lệ 12,6% (816.000.000đồng : 6.485.000.000đồng x 100 = 12,6%).

Do đó, Bà Lê Thị L cùng các thành viên góp vốn của Công ty trách nhiệm hữu hạn BCHA phải có trách nhiệm làm thủ tục thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp tại cơ quan có thẩm quyền để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (do có thay đổi về vốn điều lệ, giá trị phần vốn góp và tỷ lệ phần vốn góp vào Công ty trách nhiệm hữu hạn BCHA) theo đúng các quy định của pháp luật.

[3.2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc huỷ Quyết định số 06/2021/QĐ-HĐTV ngày 01/04/2021 về việc miễn nhiệm chức vụ Giám đốc của bà Lê Thị L ( gọi tắt là Quyết định số 06) và Quyết định số 07/2021/QĐ-HĐTV ngày 01/04/2021 về việc quản lý, sử dụng và trách nhiệm của người quản lý con dấu ( gọi tắt là Quyết định số 07) của Hội đồng thành viên Công ty trách nhiệm hữu hạn BCHA, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[3.2.1] Căn cứ theo Biên bản họp Hội đồng thành viên ngày 24/9/2020 và ngày 27/3/2021, Hội đồng thành viên công ty BCHA ban hành 02 Quyết định số 06/2021/QĐ-HĐTV ngày 01/04/2021 và Quyết định số 07/2021/QĐ-HĐTV ngày 01/04/2021. Nhưng nội dung Biên bản họp ngày 24/9/2020 không biểu quyết thông qua các vấn đề được nêu tại Quyết định số 06 và 07. Ngoài ra, bị đơn cũng không cung cấp biên bản họp Hội đồng thành viên ngày 27/3/2021. Đến ngày 12/6/2021, Công ty BCHA mới tiến hành họp Hội đồng thành viên và lập 03 biên bản họp của Hội đồng thành viên số 17/BB-HĐTV, số 17.1/BB-HĐTV, số 17.2/BB-HĐTV. Tại biên bản số 17 có nội dung thay đổi người đại diện theo pháp luật từ bà Lê Thị Lsang người đại diện theo pháp luật mới là ông Lê Gia Ph. Phần nội dung cuộc họp của Biên bản số 17.2 có nội dung: Bổ nhiệm ông Lê Gia Ph chức vụ Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm vị trí Giám đốc công ty BCHA kể từ ngày 12/6/2021. Miễn nhiệm chức vụ Giám đốc đối với bà Lê Thị L. Bà Liễu chịu trách nhiệm bàn giao các công việc đang đảm nhận, hồ sơ tài liệu, tài sản có liên quan đến chức vụ cho Ban Giám đốc công ty chậm nhất đến ngày 30/6/2021 là vi phạm quy định tại Điều 50 Luật doanh nghiệp 2013 và Điều 23, Điều 25 Điều lệ Công ty BCHA.

[3.2.2] Mặc khác, theo quy định tại Điều 52 Luật doanh nghiệp 2013 và tại Điều 26 Điều lệ Công ty BCHA quy định: “ Quyết định của Hội đồng thành viên được thông qua tại cuộc họp trong trường hợp được số phiếu đại diện ít nhất 65% tổng số vốn góp của các thành viên dự họp chấp thuận”. Tuy nhiên, như Hội đồng xét xử đã nhận định tại mục [3.1.4], tại thời điểm Hội đồng thành viên ban hành 02 Quyết định số 06 và số 07 thì tỷ lệ vốn góp của các thành viên tham gia không đủ 65% theo quy định.

[3.3.3] Từ những phân tích tại mục [3.2.1 và mục [3.2.2] Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị L về việc yêu cầu huỷ 02 Quyết định số 06 và số 07 của Hội đồng thành viên Công ty BCHA [4] Tại phiên toà, người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là bà Lê Thị L đề nghị tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 19 Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP ngày 24 tháng 9 năm 2020 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao: “ Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 3387/2021/QĐ-BPKCTT ngày 19 tháng 7 năm 2021 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Định về áp dụng biện pháp tạm thời cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định.

[5] Tại phiên tòa kiểm sát viên đề nghị hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa để thu thập lời khai của các thành viên trong công ty nhằm xác định lại số vốn góp của các thành viên trong công ty. Hội đồng xét xử thấy rằng các chứng cứ này đã được thể hiện trong hồ sơ vụ án Do đó, Hội đồng xét xử không thống nhất tạm ngừng phiên tòa theo nội dung đề nghị của Kiểm sát viên.

[6] Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:

[6.1] Vì yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bà Lê Thị L không phải chịu tiền án phí sơ thẩm. Hoàn lại cho bà L 2.000.000đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0000050 ngày 16 tháng 7 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Định.

[6.2] Ông Lê Gia Ph phải chịu 3.000.000đồng.

[7] Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn phát biểu quan điểm phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.

[8] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa để thu thập lời khai của các thành viên trong công ty nhằm xác định lại số vốn góp của các thành viên trong công ty; đồng thời hủy Quyết định số 06/2021/QĐ-HĐTV ngày 01/04/2021 về việc miễn nhiệm chức vụ Giám đốc của bà Lê Thị Lvà Quyết định số 07/2021/QĐ-HĐTV ngày 01/04/2021 về việc quản lý, sử dụng và trách nhiệm của người quản lý con dấu của Hội đồng thành viên Công ty trách nhiệm hữu hạn BCHA là phù hợp với một phần nhận định của HĐXX.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, khoản 2 Điều 37, Điều 133, 138, 139, khoản 2 Điều 227, Điều 271, Điều 273, của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 50, 52 của Luật doanh nghiệp năm 2013;

Căn cứ Điều 19 Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP ngày 24 tháng 9 năm 2020 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật Tố tụng dân sự Căn cứ Điều 26 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị L.

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị L về việc yêu cầu xác định số vốn góp thêm của bà L tại Công ty trách nhiệm hữu hạn BCHA, ngoài số vốn bà L đã góp theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ngày 31 tháng 3 năm 2020.

2. Công nhận tổng số vốn góp của 07 thành viên tại Công ty trách nhiệm hữu hạn BCHA so với Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ngày 31 tháng 3 năm 2020 là 6.485.000.000đồng (sáu tỷ bốn trăm tám mươi lăm triệu đồng). Cụ thể như sau:

2.1. Bà Lê Thị L có phần vốn góp là 3.000.000.000đồng (ba tỷ đồng);

2.2 Ông Hoàng C có phần vốn góp là 1.000.000.000đồng (một tỷ đồng);

2.2. Bà Nguyễn Thị D có phần vốn góp là 513.000.000đồng (năm trăm mươi ba triệu đồng);

2.3. Ông Nguyễn Thanh V có phần vốn góp là 433.000.000đồng (bốn trăm ba mươi ba triệu đồng);

2.4. Ông Nguyễn Thành Tr có phần vốn góp là 373.000.000đồng (ba trăm bảy mươi ba triệu đồng);

2.5. Ông Trần Văn H có phần vốn góp là 350.000.000đồng (ba trăm năm chục triệu đồng);

2.6. Ông Lê Gia Ph có phần vốn góp là 816.000.000đồng (tám trăm mươi sáu triệu dồng).

3. Bà Lê Thị L cùng các thành viên góp vốn của Công ty trách nhiệm hữu hạn BCHA phải có trách nhiệm làm thủ tục thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp tại cơ quan có thẩm quyền để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (do có thay đổi về vốn điều lệ, giá trị phần vốn góp và tỷ lệ phần vốn góp vào Công ty trách nhiệm hữu hạn BCHA) theo đúng các quy định của pháp luật.

4. Huỷ Quyết định số 06/2021/QĐ-HĐTV ngày 01/04/2021 về việc miễn nhiệm chức vụ Giám đốc của bà Lê Thị L và Quyết định số 07/2021/QĐ-HĐTV ngày 01/04/2021 về việc quản lý, sử dụng và trách nhiệm của người quản lý con dấu của Hội đồng thành viên Công ty trách nhiệm hữu hạn BCHA.

5. Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 3387/2021/QĐ-BPKCTT ngày 19 tháng 7 năm 2021 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Định về áp dụng biện pháp tạm thời cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định.

6. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:

6.1. Bà Lê Thị L không phải chịu tiền án phí sơ thẩm. Hoàn lại cho bà L 2.000.000đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0000050 ngày 16 tháng 7 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Định.

6.2. Ông Lê Gia Ph phải chịu 3.000.000đồng (ba triệu đồng).

7. Về quyền và nghĩa vụ thi hành án:

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự 8. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt bản án hợp lệ.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

75
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phần số 10/2023/KDTM–ST

Số hiệu:10/2023/KDTM–ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về