TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 48/2023/DS-PT NGÀY 10/01/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN CĂN BIỆT THỰ
Trong ngày 10 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 212/DSPT ngày 24 tháng 6 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ”; Do bản án dân sự sơ thẩm số: 233/2020/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 6464/2022/QĐPT-DS, ngày 16 tháng 12 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Đ.
Địa chỉ: Tầng H, Tòa nhà P, số F đường N, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Nguyễn Mai P, sinh năm 1975 (Có mặt); Ông Huỳnh Lương D, sinh năm 1994. (Vắng mặt)
- Bị đơn:
1/ Bà Huỳnh Thị Huyền N, sinh năm 1978. (Vắng mặt) Nơi đăng ký thường trú: 242/4 đường Đ, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Hiện đang thụ án tại: Trại giam Đ1 (xã Đ, huyện T, tỉnh An Giang) - Cục C - Bộ C1.
2/ Bà Huỳnh Mỹ H, sinh năm 1972. (Vắng mặt) Nơi đăng ký thường trú: 242/4 đường Đ, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Hiện đang thụ án tại: Trại giam T (H, Bình Thuận) - Cục C - Bộ C1.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Cục Thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt) Địa chỉ: C đường N, Phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người kháng cáo: Bà Huỳnh Thị Huyền N - Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Theo đơn khởi kiện; Bản tự khai của người đại diện theo ủy quyền là bà Bùi Hương Q; Biên bản không hòa giải cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ và tại phiên toà thì nội dung vụ án được xác định như sau:
Công ty Cổ phần Đ và bà Huỳnh Mỹ H đã ký kết Hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL_PL/09 vào ngày 15 tháng 9 năm 2009 để mua bán căn biệt thự số KL49(B4) thuộc dự án Khu biệt thự phố K và Hợp đồng mua bán nhà số 13/HĐMBN/NL_PL/09 ngày 12 tháng 4 năm 2009 để mua bán Căn biệt thự số NL79(E1) thuộc dự án Khu biệt thự phố kinh doanh Ngân Long cùng tọa lạc tại đường N, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh do Công ty Cổ phần Đ làm chủ đầu tư. Sau khi ký hợp đồng cho đến ngày 16 tháng 7 năm 2011, bà Huỳnh Mỹ H mới thanh toán cho Công ty Cổ phần Đ tổng số tiền là: 18.220.391.800 đồng, gồm 5.350.000.000 đồng tương đương 35% giá trị Hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL_PL/09 và 12.870.000.000 đồng tương đương 72,5% giá trị Hợp đồng mua bán nhà số 13/HĐMBN/NL PL/09. Theo quy định tại Hợp đồng mua bán nhà số 13/HĐMBN/NL PL/09 và Hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL_PL/09 giữa Công ty cổ phần Đ và bà Huỳnh Mỹ H “Bên bán bảo lưu quyền sở hữu đối với Biệt thự cho đến khi Bên mua thanh toán đủ 95% Giá bán và thủ tục bàn giao đã hoàn tất”. Tính đến thời điểm bà Huỳnh Mỹ H bị khởi tố và tạm giam thì số tiền thanh toán cho Công ty cổ phần Đ chưa đủ điều kiện để chuyển giao quyền sở hữu và bàn giao hai căn biệt thự và trên thực tế bà Huỳnh Mỹ H cũng chưa nhận bàn giao hai căn biệt thự này. Chính vì vậy, hai căn biệt thự KL49(B4) và NL79(E1) vẫn thuộc quyền sở hữu của Công ty Đ, không phải là tài sản của H1 Như/Mỹ H. Mặc dù hai căn biệt thự KL49(B4) và NL79(E1) chưa phải là tài sản của H1 Như/Mỹ H nhưng trong quá trình điều tra truy tố Huỳnh Thị Huyền N về tội danh “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” thì ngày 28 tháng 9 năm 2011 Cơ quan điều tra Bộ C1 ban hành Lệnh kê biên tài sản số 04/C46(P10) và lập Biên bản kê biên tài sản ngày 01 tháng 10 năm 2011 đối với hai căn biệt thự KL49(B4) và NL79(E1). Cơ quan điều tra Bộ C1 đã xác định: Hành vi của Huỳnh Thị Huyền N giả mạo chữ ký của Huỳnh Mỹ H trên 02 hợp đồng mua bán với Công ty Đ. Tổng số tiền 18.220.391.800 đồng chuyển cho Công ty Đ để thanh toán cho Hợp đồng mua bán nhà số 13/HĐMBN/NL_PL/09 và Hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL_PL/09 đều là của Huỳnh Thị Huyền N. Đến giai đoạn thi hành án, Cục Thi hành án đà tiến hành xác minh và Huỳnh Thị Huyền N vẫn tiếp tục khẳng định việc giả mạo chữ ký của Huỳnh Mỹ H để ký hợp đồng mua bán hai căn biệt thự KL49(B4) và NL79(E1) với Công ty Đ, toàn bộ nguồn tiền đã nộp cho Công ty cổ phần Đ là của bà Huỳnh Thị Huyền N (Biên bản về việc giải quyết việc thi hành án ngày 25 tháng 11 năm 2019).
Ngày 27 tháng 01 năm 2014, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có Bản án sơ thẩm số 46/2014/HSST tuyên án tù chung thân đối với Huỳnh Thị Huyền N về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”. Bản án phúc thẩm số 02/2015/HSPT ngày 07 tháng 01 năm 2015 của Tòa án nhân dân Tối Cao tại thành phố Hồ Chí Minh y án sơ thẩm đối với Huỳnh Thị Huyền N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”. Trong cả hai bản án số 46/2014/HSST và 02/2015/HSPT đều nêu rõ việc tiếp tục kê biên hai căn biệt thự số KL49(B4) và NL79(E1) để thực hiện việc thi hành án của H1 Như/Mỹ H.
Như vậy, tài sản là 02 căn biệt thự KL49(B4) và NL79(E1) đến thời điểm hiện tại vẫn thuộc quyền sở hữu/quyền sử dụng của Công ty cổ phần Đ và bà Huỳnh Thị Huyền N đã giả mạo bà Huỳnh Mỹ H để ký 02 hợp đồng mua bán 02 căn hộ trên với Công ty cổ phần Đ. Do đó, yêu cầu Tòa án giải quyết: Tuyên Hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL_PL/09 và số 13/HĐMBN/NL_PL/09 giữa Công ty cổ phần Đ và bà Huỳnh Mỹ H vô hiệu do giả tạo; Khôi phục lại tình trạng ban đầu đối với các bên, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, theo đó hai căn biệt thự KL49(B4) và NL79(E1) giao lại cho Công ty cổ phần Đ và số tiền 18.220.391.800 đồng sẽ giao lại cho bà Huỳnh Thị Huyền N để nộp lại cho Cục Thi hành án Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện thi hành án theo quyết định thi hành án số 1436/QĐ-CTHA. Thi hành cùng một lúc ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
*Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai, trong quá trình thu thập chứng cứ, bị đơn bà Huỳnh Thị Huyền N trình bày:
Bà Huỳnh Thị Huyền N thông qua Công ty M đã trực tiếp thương lượng giá cả, điều kiện mua bán và giữa bà Huỳnh Thị Huyền N với Công ty cổ phần Đ đã đi đến thống nhất, thỏa thuận được việc mua bán hai căn biệt thự KL49(B4) và NL79(E1) cùng tọa lạc tại đường N, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh do Công ty cổ phần Đ làm chủ đầu tư theo Hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL_PL/09 vào ngày 15 tháng 9 năm 2009 và Hợp đồng mua bán nhà số 13/HĐMBN/NL_PL/09 ngày 12 tháng 4 năm 2009. Theo thỏa thuận trong các hợp đồng, bà Huỳnh Thị Huyền N đã thanh toán cho Công ty Cổ phần Đ tổng số tiền là: 18.220.391.800 đồng, gồm 5.350.000.000 đồng tương đương 35% giá trị Hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL_PL/09 và 12.870.000.000 đồng tương đương 72,5% giá trị Hợp đồng mua bán nhà số 13/HĐMBN/NL_PL/09, việc thanh toán tiền mua bán nhà đều thực hiện theo thỏa thuận trong hợp đồng và có chứng từ thanh toán do Công ty cổ phần Đ phát hành. Việc mua bán hai căn biệt thự trên đang thực hiện đúng theo tiến độ thì dừng lại do bà N bị bắt tạm giam và hiện nay đang là bị thi hành án tại Trại giam L1, Cục C, Bộ C1 theo Bản án phúc thẩm số 02/2015/HSPT ngày 07 tháng 01 năm 2015 của Tòa án nhân dân Tối Cao tại thành phố Hồ Chí Minh y án sơ thẩm đối với Huỳnh Thị Huyền N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”. Bà Huỳnh Thị Huyền N trực tiếp thương lượng mua bán, thanh toán tiền của bà N cho Công ty cổ phần Đ đối với hai căn biệt thự KL49(B4) và NL79(E1) nhưng bà N ký tên bà Huỳnh Mỹ H (Chị ruột của bà N) là vì bà N thường xuyên đi giao dịch mua bán ở nhiều địa phương khác nhau, thường hay đi công tác nên mới ký tên bà Huỳnh Mỹ H trong hợp đồng mua bán cho thuận tiện và do lỡ ký tên trong hợp đồng mua bán nên khi thanh toán tiền bà N cũng ký tên bà Huỳnh Mỹ H cho hợp lý với các hợp đồng mua bán mặc dù tiền thanh toán cho hai căn biệt thự trên là của bà N và bà N là người trực tiếp thực hiện việc thanh toán tiền. Như vậy, bản chất các hợp đồng tại thời điểm đó đều được các bên giao kết đúng pháp luật và hiện nay bà N đang thi hành án nên không có điều kiện tiếp tục thực hiện các hợp đồng mua bánh hai căn biệt thự trên. Do đó, đề nghị Tòa án phối hợp cùng Cơ quan thi hành án xử lý các tài sản trên theo quy định của pháp luật để đảm bảo thu hồi số tiền khắc phục hậu quả. Bà Huỳnh Thị Huyền N không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần Đ, không đồng ý trả lại tài sản là hai căn biệt thự KL49(B4) và NL79(E1) cho Công ty cổ phần Đ.
*Tại các bản tự khai ngày 14/8/2020, bị đơn bà Huỳnh Mỹ H trình bày:
Bà Huỳnh Mỹ H là chị ruột của bà Huỳnh Thị Huyền N, bà H chưa bao giờ gặp gỡ, giao dịch với Công ty cổ phần Đ, không ký hai Hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL_PL/09 vào ngày 15 tháng 9 năm 2009 và Hợp đồng mua bán nhà số 13/HĐMBN/NL_PL/09 ngày 12 tháng 4 năm 2009; Chữ ký trong hai Hợp đồng mua bán trên là do bà Huỳnh Thị Huyền N giả mạo bà H ký và đến năm 2011 khi Công an điều tra vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” liên quan đến bà H, bà N thì bà H mới biết sự việc trên. Số tiền thanh toán cho hai Hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL_PL/09 số 13/HĐMBN/NL_PL/09 là 18.220.391.800 đồng không phải là tiền của bà H. Do việc giao dịch mua bán hai căn hộ trên với Công ty cổ phần Đ không liên quan đến bà H, bà không có quyền lợi hay nghĩa vụ gì liên quan đến các giao dịch trên nên đề nghị Tòa án không đưa bà tham gia vụ vụ án, xét xử vắng mặt bà. Đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần Đ, bà không có ý kiến vì bà không biết gì về sự việc trên và đề nghị Tòa án xét xử theo quy định pháp luật.
*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh trình bày:
Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh đang tổ chức thi hành bản án số 02/2015/HSPT ngày 07 tháng 01 năm 2015 của Tòa án nhân dân Tối Cao tại thành phố Hồ Chí Minh đối với Huỳnh Thị Huyền N và đồng bọn phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức; cho vay nặng lãi. ...”. Theo nội dung quyết định của bản án tuyên:
“...1.3- Bất động sản: Lệnh kê biên tài sản số: 04/C46/P10) ngày 28/9/2011 của CQCSĐT Bộ Công an đã kê biên tài sản đối với Huỳnh Thị Huyền N gồm 12 bất động sản như sau:
... + Biên bản kê biên tài sản ngày 01/10/2011: Kê biên biệt thự số KL49/B4 dự án Khu biệt thự phố kinh doanh Ngân Long theo Hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL_PL/09 giữa Công ty Cổ phần Đ và Huỳnh Thị Huyền N, giá trị căn biệt thự là 17.733.693.000 đồng (đã thanh toán 12.866.847.200 đồng); biệt thự NL79(E1) dự án Khu biệt thự phố kinh doanh Ngân Long theo Hợp đồng mua bán nhà số 13/HĐMBN/NL_PL/09 giữa Công ty Cổ phần Đ và Huỳnh Thị Huyền N, giá trị căn biệt thự là 16.767.723.000 đồng (đã thanh toán 5.353.544.600 đồng), tổng số tiền bà N đã thanh toán cho 02 hợp đồng là 18.220.391.800 đồng. Còn nợ 16.281.024.200 đồng (thanh toán xong khoảng 59.5 %) ...” Quá trình thi hành án do Công ty Cổ phần Đ có rất nhiều văn bản đề nghị Cơ quan Thi hành án cho chấm dứt hợp đồng với bên mua, hoàn trả lại tiền cho bên mua và giải tỏa kê biên đối với tài sản. Vì lý do tài sản chưa thuộc quyền sở hữu của bên mua. Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh đã ra thông báo về việc xác định quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản thi hành án số 2074/TB-CTHADS ngày 22 tháng 11 năm 2019, thông báo cho người được thi hành án, người phải thi hành án và người có tranh chấp quyền khởi kiện tại Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đối với 02 tài sản trên, việc xử lý tài sản được thực hiện theo quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền.
* Bản án dân sự sơ thẩm số: 233/2020/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên:
1. Về hình thức: Xử vắng mặt nguyên đơn Công ty Cổ phần Đ, bị đơn bà Huỳnh Thị Huyền N và bà Huỳnh Mỹ H, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh 2. Về nội dung: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn:
2.1. Tuyên bố Hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL_PL/09 ngày 15 tháng 9 năm 2009 và Hợp đồng mua bán nhà số 13/HĐMBN/NL_PL/09 ngày 12 tháng 4 năm 2009 giữa Công ty Cổ phần Đ và bà Huỳnh Mỹ H vô hiệu.
2.2. Giao lại cho Công ty cổ phần Đ căn biệt thự số KL49(B4) thuộc dự án Khu biệt thự phố K và căn biệt thự số NL79(E1) thuộc dự án Khu biệt thự phố kinh doanh Ngân Long cùng tọa lạc tại đường N, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh, ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Công ty Cổ phần Đ trả lại cho cho bà Huỳnh Thị Huyền N số tiền 18.220.391.800 đồng, ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
3. Giành cho các bên quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu đối với Hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL_PL/09 ngày 15 tháng 9 năm 2009 và Hợp đồng mua bán nhà số 13/HĐMBN/NL_PL/09 ngày 12 tháng 4 năm 2009 giữa Công ty cổ phần Đ và bà Huỳnh Mỹ H.
Kể từ ngày bà Huỳnh Thị Huyền N có đơn yêu cầu thi hành án, nếu Công ty Cổ phần Đ chậm thi hành thì phải trả lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 đối với số tiền chậm thi hành tương ứng với thời gian chậm thi hành tại thời điểm thi hành.
Ngoài ra, bản án còn tuyên án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 11 tháng 12 năm 2020, bị đơn bà Huỳnh Thị Huyền N có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm số 233/2020/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn yêu cầu giữ nguyên bản án dân sự số 233/2020/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn bà Huỳnh Thị Huyền N vắng mặt, tại đơn kháng cáo bà N yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm số 233/2020/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh theo hướng tuyên 02 hợp đồng mua bán căn biệt thự có hiệu lực và tiếp tục kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án đối với việc khắc phục hậu quả trong vụ án hình sự.
- Bị đơn bà Huỳnh Mỹ H vắng mặt, bà H không kháng cáo.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu:
- Về tố tụng: Đơn kháng cáo của đương sự làm trong hạn luật định nên hợp lệ, đề nghị Tòa án chấp nhận. Hội đồng xét xử và những người tham gia phiên tòa chấp hành đúng quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm.
- Về tố tụng:
Về người tham gia tố tụng: Bà N trình bày tại bản tự khai ngày 21/07/2020 tại Trại giam L1, bà N giao dịch với Công ty Đ thông qua Công ty M và việc hợp đồng mang tên bà H nhưng ký tên bà N đã có sự thống nhất đồng ý của Công ty Đ và Công ty M. Tòa án sơ thẩm không đưa Công ty M1 sản CBRE vào tham gia tố tụng là vi phạm khoản 4 điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Chưa tiến hành thẩm định giá trị tài sản tranh chấp để làm cơ sở giải quyết vụ án.
- Về nội dung:
Xét kháng cáo của bị đơn bà Huyền N: về nội dung kháng cáo bà N không đồng ý với phán quyết của Tòa án sơ thẩm về việc tuyên hợp đồng vô hiệu và buộc công ty Đ trả lại cho bà số tiền đã nộp thanh toán 02 hợp đồng mua 02 căn biệt thự Kim Long KL49 (B4) và NL79 (E1) mà bà đã thanh toán số tiền 18.220.391.800 đồng. Theo kháng cáo bà N cho rằng Tòa án sơ thẩm tuyên như vậy là không đúng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà cũng như thiệt hại các khoản phải thu hồi trả lại cho ngân sách nhà nước. Trường hợp có hủy hợp đồng cũng phải tính giá trị tăng theo thời gian hoặc ít nhất là cũng thêm một khoản lãi suất ngân hàng. Nhận thấy, tại bản án hình sự số thẩm số 46/2014/HSST ngày 27/01/2014 của tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, tại phần xét thấy của tòa án sơ thẩm có xác định xử lý vật chứng, tài sản kê biên thu giữ trong vụ án: “I/ Đối với bị cáo Huỳnh thị Huyền N1: Các khoản tiền thu giữ được xác định là của bị cáo Huỳnh thị Huyền N1 bao gồm:... Theo biên bản kê biên tài sản ngày 01/10/2011 kê biên biệt thự số KL49 (B4) dự án khu B theo hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL-PL/09 giữa Công ty Cổ phần Đ và bà Huỳnh Thị huyền N2, giá trị căn biệt thự là 17.733.693.000đ (đã thanh toán 12.866.847.200đ); biệt thự NL 79 (E1) dự án khu biệt thự kinh doanh Ngân Long theo hợp đồng mua bán nhà số 013/HĐMBN/NL-PL/09 giữa Công ty Cổ phần Đ và bà Huỳnh Thị Huyền N, trị giá căn biệt thự là 16.767.723.000đ (đã thanh toán 5.353.544.000đ). Tổng số tiền bà H đã thanh toán cho 02 hợp đồng là 18.220.391.800đ, còn nợ 16.281.024.200đ (thanh toán xong 59,5%) ... Toàn bộ số tài sản này được xác định là của Huỳnh Thị Huyền N nên cần tiếp tục duy trì lệnh kê biên, tạm giữ đối với các tài sản trên để bảo đảm thi hành án. (trang 123 đến trang 129 Bản án hình sự sơ thẩm số 46)”. Đối với phần tài sản này, Bản án hình sự sơ thẩm đà xác định đây là tài sản của bà N cũng như là đà khẳng định hợp đồng vẫn có hiệu lực. Phần xác định, kê biên tài sản trên đề bảo đảm thi hành án, không bị kháng cáo, kháng nghị và bản án hình sự phúc thẩm không sửa hay hủy các lệnh trên, do đó cần xác định tài sản này là của bà N đã được xác định bằng bản án hình sự đà có hiệu lực pháp luật. Do đó, Công ty cổ phần Đ không có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL-PL-09 và số 013/HDDMBN/NL-PL/09 giữa Công ty cổ phần Đ với bà Huỳnh Mỹ H vô hiệu theo quy định của pháp luật. Tại văn bản số 5232/CTHADS ngày 02 tháng 3 năm 2020 cho rằng Cục thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh ban hành thông báo số 2074/TB-CTHADS ngày 22 tháng 11 năm 2019 để xác định quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản. Căn cứ hướng dẫn tại khoản 4 điều 11 của Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30 tháng 12 năm 2020 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, việc xử lý tài sản là 02 căn hộ trên được thực hiện theo hướng dẫn tại điều 11, khoản 4 của Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30 tháng 12 năm 2020 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Trước khi Cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản để đảm bảo quyền lợi của mình Công ty cổ phần Đ có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng của Công ty C2 tỷ lệ bao nhiêu phần trăm trong 02 căn biệt thự nêu trên tương ứng với giá trị là bao nhiêu.
Việc xác định giá trị tài sản và đưa Công ty M tham gia tố tụng là cần thiết để giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật. Do Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng tố tụng và nội dung, các vi phạm này cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên cần thiết phải hủy án trả hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè giải quyết lại theo quy định chung. Kháng cáo của bà Huyền N là có cơ sở để chấp nhận.
- Quan điểm của kiểm sát viên: Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm áp dụng khoản 3 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chấp nhận kháng cáo của bà Huỳnh Thị Huyền N, hủy bản án sơ thẩm số 233/2020/DSST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, giao lại hồ sơ cho Tòa án huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị đơn bà N nộp trong thời hạn theo quy định tại Điều 272 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên được chấp nhận xem xét lại bản án theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung: Tại đơn kháng cáo bị đơn bà Huỳnh Thị Huyền N (Gọi tắt là bà N) kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm số 233/2020/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, theo hướng tuyên 02 hợp đồng mua bán căn biệt thự có hiệu lực và tiếp tục kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án đối với việc khắc phục hậu quả trong vụ án hình sự.
[3] Về áp dụng pháp luật: Điểm b khoản 1 Điều 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định giao dịch dân sự đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì áp dụng quy định của Bộ luật này. Hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL_PL/09 ngày 15 tháng 9 năm 2009 và Hợp đồng mua bán nhà số 13/HĐMBN/NL_PL/09 ngày 12 tháng 4 năm 2009 được 2 bên giao kết về nội dung và hình thức phù hợp với Bộ luật Dân sự năm 2015 nên Bộ luật Dân sự năm 2015 được áp dụng để giải quyết vụ án này.
[4] Về quyền khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần Đ (Gọi tắt là P): Tại bản án hình sự sơ thẩm số 46/2014/HSST ngày 27 tháng 01 năm 2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án hình sự phúc thẩm số 02/2015/HSPT ngày 07 tháng 01 năm 2015 của Tòa án nhân dân Tối Cao - Tòa phúc thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh đều xác định: “... Theo biên bản kê biên tài sản ngày 01/10/2011 kê biên biệt thự số KL49 (B4) dự án khu B theo hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL-PL/09 giữa Công ty Cổ phần Đ và bà Huỳnh Thị Huyền N, giá trị căn biệt thự là 17.733.693.000đ (đã thanh toán 12.866.847.200đ); biệt thự NL 79 (E1) dự án khu biệt thự kinh doanh Ngân Long theo hợp đồng mua bán nhà số 013/HĐMBN/NL-PL/09 giữa Công ty Cổ phần Đ và bà Huỳnh Thị Huyền N, trị giá căn biệt thự là 16.767.723.000đ (đã thanh toán 5.353.544.000đ). Tổng số tiền bà N đã thanh toán cho 02 hợp đồng là 18.220.391.800đ, còn nợ 16.281.024.200đ (thanh toán xong khoảng 59,5%)...Toàn bộ số tài sản này được xác định là của Huỳnh Thị Huyền N nên cần tiếp tục duy trì lệnh kê biên, tạm giữ đối với các tài sản trên để bảo đảm thi hành án ”. Nhận thấy, tại bản án hình sự đã xác định số tiền bà N đã thanh toán cho 2 hợp đồng là 18.220.391.800 đồng (khoảng 59,5%); Phú L không được tòa án triệu tập vào tham gia trong vụ án hình sự này; Hợp đồng giao kết không tiếp tục thực hiện được do bà N đã bị tuyên án với mức án chung thân; Công văn số 2074/TB-CTHADS ngày 22 tháng 11 năm 2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh đã thông báo về việc xác định quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản thi hành án, thông báo cho người được thi hành án, người phải thi hành án và người có tranh chấp có quyền khởi kiện tại Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đối với 02 tài sản trên, việc xử lý tài sản được thực hiện theo quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền. Như vậy, P có quyền khởi kiện bằng một vụ án dân sự, yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định tại Điều 4 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Do đó, việc Phú L khởi kiện bà N và Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án là phù hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[5] Về quan hệ tranh chấp: P khởi kiện bà N đối với Hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL_PL/09 vào ngày 15 tháng 9 năm 2009 và Hợp đồng mua bán nhà số 13/HĐMBN/NL_PL/09 ngày 12 tháng 4 năm 2009, đối tượng ở đây là bất động sản là căn biệt thự không phải là căn hộ, việc Tòa cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp khi thụ lý vụ án là “Tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ” tuy không sai về bản chất pháp lý nhưng chưa chính xác với đối tượng của hợp đồng và sự thỏa thuận của các bên. Do đó, cần xác định lại đây là “Tranh chấp hợp đồng mua bán căn biệt thự” để bảo đảm tính chính xác của vụ án.
[6] Tính xác thực của hợp đồng số 17/HĐMBN/KL_PL/09 vào ngày 15 tháng 9 năm 2009 và hợp đồng số 13/HĐMBN/NL_PL/09 ngày 12 tháng 4 năm 2009: Căn cứ vào bản án hình sự xác định “Toàn bộ số tài sản này được xác định là của Huỳnh Thị Huyền N nên cần tiếp tục duy trì lệnh kê biên, tạm giữ đối với các tài sản trên để bảo đảm thi hành án”; Căn cứ vào lời khai nhận của bà Huỳnh Thị Huyền N và bà Huỳnh Mỹ H đà xác định được việc mua bán hai căn biệt thự này bà H hoàn toàn không biết cho đến khi bà H bị công an bắt giữ. Bà N là người trực tiếp ký hợp đồng với Phú L để mua 1 biệt thự tại Dự án khu B và 1 biệt thự tại Dự án khu biệt thự phố K, cụ thể: Hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL_PL/09 ký ngày 15 tháng 9 năm 2009 để mua bán căn biệt thự ký hiệu KL49(B4) của Dự án khu biệt thự K thuộc khu dân cư P, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà N đã thanh toán được 5.350.000.000 đồng, tương đương 35% giá trị hợp đồng. Hợp đồng mua bán nhà số 13/HĐMBN/NL_PL/09 ký ngày 12 tháng 4 năm 2009 để mua bán biệt thự ký hiệu NL79(E1) của Dự án khu biệt thự phố kinh doanh Ngân Long thuộc khu dân cư P, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà N đã thanh toán được 12.870.000.000 đồng, tương đương 72,5% giá trị hợp đồng. Hai hợp đồng trên không thể tiếp tục thực hiện vì bà N bị bắt và hai biệt thự này đã bị cơ quan điều tra kê biên để bảo đảm cho việc khắc phục hậu quả. Bà N cũng thừa nhận, vì bà Như t đi công tác, để dễ dàng thực hiện việc mua bán nên bà N đã ghi tên chị ruột của bà là bà H vào hai hợp đồng này, bà N là người ký tên hợp đồng, là người thanh toán tiền cho Phú L nhưng ký và ghi tên Huỳnh Mỹ H. Bà N là người thanh toán tiền theo tiến độ cho Phú L, đây là tiền cá nhân của bà N, không phải tiền của bà H và cũng không phải là tiền do bà N phạm tội mà có. Cho đến khi bà N bị bắt thì bà N đã thanh toán cho Phú L cả hai hợp đồng là 18.220.391.800 đồng. Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thì hai hợp đồng được các bên thực hiện theo đúng các điều khoản thỏa thuận, bà N thanh toán đầy đủ tiền theo tiến độ xây dựng hai căn biệt thự cho đến khi bà N bị bắt. Tuy trong hai hợp đồng có sự sai lệch về tên chủ thể (Bên mua) nhưng hai hợp đồng được các bên tuân thủ đúng về nội dung và hình thức của hợp đồng, thể hiện được sự đồng thuận, thống nhất ý chí giữa các bên. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định giữa P và bà N tồn tại một giao dịch dân sự đó là giao dịch ký kết hợp đồng mua bán căn biệt thự, hai hợp đồng này đã được xác lập giữa hai bên và đều có giá trị pháp lý. Do đó, cấp sơ thẩm tuyên hai hợp đồng này vô hiệu do giả tạo là không có căn cứ.
[7] Xét hợp đồng số 17/HĐMBN/KL_PL/09 vào ngày 15 tháng 9 năm 2009 và hợp đồng số 13/HĐMBN/NL_PL/09 ngày 12 tháng 4 năm 2009: Căn cứ bản án hình sự sơ thẩm số 46/2014/HSST ngày 27 tháng 01 năm 2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án hình sự phúc thẩm số 02/2015/HSPT ngày 07 tháng 01 năm 2015 của Tòa án nhân dân Tối Cao - Tòa phúc thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có hiệu lực pháp luật xác định được việc ký kết 2 hợp đồng trên giữa P và bà N chỉ là giao dịch dân sự, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với bên thứ 3, hai căn biệt thự này cũng không phải là tài sản do bà N phạm tội mà có, giao dịch dân sự này cũng không nhằm che đậy cho một giao dịch dân sự khác, hợp đồng được ký trên sự đồng thuận giữa hai bên, không bị đe dọa hay cưỡng ép. Như vậy, giữa hai bên đà tồn tại hai hợp đồng, hai hợp đồng này có hiệu lực và đang được các bên thực hiện theo đúng các điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên, hai hợp đồng này không thể tiếp tục thực hiện là do bà N bị bắt và hiện đang chấp hành án, sự việc này nằm ngoài ý muốn của các bên, tại thời điểm ký kết hợp đồng hai bên không lường trước được việc bà N bị bắt và bị kết án, đây là nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi Phú L và bà N ký kết hợp đồng số 17/HĐMBN/KL_PL/09 và số 13/HĐMBN/NL_PL/09. Việc bà N bị bắt và bị kết án đã làm hoàn cảnh thay đổi cơ bản đã khác so với khi ký kết hợp đồng, sự thay đổi hoàn cảnh là do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng, tại thời điểm ký hợp đồng các bên không thể lường trước được về sự thay đổi hoàn cảnh phù hợp với quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 420 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử nhận thấy, hiện bà N đang chấp hành bản án tù chung thân đã làm cho hai hợp đồng này không thể tiếp tục thực hiện được, kéo dài hai hợp đồng sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Phú L cũng như việc thi hành án phần khắc phục hậu quả của bà N trong bản án hình sự, do đó cần chấm dứt hai hợp đồng này theo quy định tại khoản 6 Điều 422 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
[8] Hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng số 17/HĐMBN/KL_PL/09 và số 13/HĐMBN/NL_PL/09: Khi hợp đồng ký kết giữa các bên chấm dứt thì cần xem xét giải quyết hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng. Nếu xét đây là hợp đồng vô hiệu như tòa cấp sơ thẩm đã tuyên thì phải giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật Dân sự năm 2015, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. Trong vụ án này, lỗi dẫn đến việc không thực hiện tiếp hợp đồng là lỗi của bà N, việc bà N bị bắt đã làm cho hợp đồng giữa hai bên bị kéo dài so với thời hạn quy định trong hợp đồng và hậu quả là hợp đồng không tiếp tục thực hiện được. Điều này làm thiệt hại, ảnh hưởng đến lợi ích của Phú L nên bà N phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Phú L theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận trong hợp đồng nếu thỏa thuận này không trái với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, việc bà N bị bắt và kết án là nguyên nhân khách quan dẫn đến hợp đồng không thể tiếp tục thực hiện được nên cả hai đều không có lỗi khi hai hợp đồng này chấm dứt. Vì vậy, khi chấm dứt hợp đồng các bên chỉ trả cho nhau những gì đã nhận, Phú L được quyền sở hữu hai căn biệt thự và có trách nhiệm hoàn trả lại cho bà N số tiền mà bà N đã thanh toán cho hai hợp đồng là 18.220.391.800 đồng, nhưng cần giao số tiền này cho Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh tạm giữ để bảo đảm cho việc khắc phục hậu quả của bà N trong bản án hình sự.
[9] Xét các yêu cầu kháng cáo của bà N: Như đã phân tích ở trên thì hai hợp đồng vẫn có hiệu lực tuy nhiên do nguyên nhân khách quan dẫn đến hai hợp đồng không thực hiện được là do bà N bị bắt và bị kết án nên cần chấm dứt hai hợp đồng này, là nguyên nhân khách quan nên cả hai không có lỗi nên không làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường. Do đó, không có căn cứ để xem xét yêu cầu kháng cáo của bà N là tính lãi suất theo quy định của pháp luật trên số tiền bà N đã thanh toán cho Phú L. Đối với kháng cáo của bà N cho rằng số tiền bà thanh toán cho Phú L phải tính tăng lên vì giá trị bất động sản tăng theo thời gian. Hội đồng xét xử nhận thấy, tại Điều 5.1 của hai hợp đồng quy định: “Bên bán bảo lưu quyền sở hữu đối với biệt thự cho đến khi Bên mua thanh toán đủ 95% Giá bản và thủ tục bàn giao đã hoàn tất”, tính đến thời điểm bà N bị bắt thì số tiền bà N thanh toán cho Phú L của hai hợp đồng là 18.220.391.800 đồng (khoảng 59,5%) là chưa đủ điều kiện để chuyển giao quyền sở hừu và bàn giao hai căn biệt thự cho bà N nên bà N chưa phải là chủ sở hữu, hai căn biệt thự vẫn thuộc quyền sở hữu của p. Hợp đồng ký kết giữa hai bên là hợp đồng mua bán nhà, không phải là hợp đồng góp vốn hay là hợp đồng hợp tác kinh doanh nên không có căn cứ để quy đổi số tiền bà N đà thanh toán cho Phú L thành tỷ lệ phần trăm sở hữu của bà N đối với hai căn biệt thự để tính tỷ lệ bà N được hưởng hoặc bà N phải chịu tổn thất khi giá trị hai căn biệt thự tăng lên hoặc giảm xuống theo thời gian, nên không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo này của bà N. Do đó, chỉ chấp nhận một phần kháng cáo của bà N về việc yêu cầu xem xét hai hợp đồng này có hiệu lực, không bị vô hiệu như cấp sơ thẩm đã tuyên.
[10] Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần chấp nhận một phần kháng cáo của bà Huỳnh Thị Huyền N, sửa bản án dân sự sơ thẩm số 233/2020/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.
[11] Về án phí:
[11.1] Án phí dân sự sơ thẩm: cấp sơ thẩm tuyên bà N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng là chưa chính xác, bởi lẽ trong vụ án này bị đơn là bà Huỳnh Thị Huyền N và bà Huỳnh Mỳ H, nếu phải chịu án phí thì cả hai phải cùng chịu, mỗi người chịu 1/2 án phí dân sự sơ thẩm. Tuy nhiên, căn cứ Điều 26; điểm a khoản 3 Điều 27 Chương III của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì do Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bố công nhận hợp đồng nên bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu phải chịu án phí không có giá ngạch, do đó Phú L phải chịu án phí là 300.000 đồng, nhưng được cấn trừ số tiền tạm ứng án phí P đã đóng là 300.000 đồng, P có trách nhiệm trả lại cho bà N số tiền 18.220.391.800 đồng nên Phú L phải chịu án phí có giá ngạch đối với số tiền phải trả là 126.220.392 đồng.
[11.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 29 Chương III của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, do Tòa án sửa bản án sơ thẩm nên người kháng cáo là bà Huỳnh Thị Huyền N không phải chịu án phí phúc thẩm. H2 lại cho bà N số tiền tạm ứng án phí kháng cáo đã nộp là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng:
- Khoản 3 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 38; Khoản 2 Điều 308 và Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Điều 420 và Điều 422 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009;
- Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (Đã sửa đổi, bổ sung năm 2014);
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Huỳnh Thị Huyền N.
2. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 233/2020/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.
Công nhận Hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL_PL/09 ngày 15 tháng 9 năm 2009 và Hợp đồng mua bán nhà số 13/HĐMBN/NL_PL/09 ngày 12 tháng 4 năm 2009 giữa Công ty cổ phần Đ và bà Huỳnh Mỹ H.
Giao Công ty Cổ phần Đ sở hữu căn biệt thự theo Hợp đồng mua bán nhà số 17/HĐMBN/KL_PL/09 ký ngày 15 tháng 9 năm 2009 để mua bán căn biệt thự ký hiệu KL49(B4) của Dự án khu biệt thự K thuộc khu dân cư P, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh và căn biệt thự theo Hợp đồng mua bán nhà số 13/HĐMBN/NL_PL/09 ký ngày 12 tháng 4 năm 2009 để mua bán biệt thự ký hiệu NL79(E1) của Dự án khu biệt thự phố kinh doanh Ngân Long thuộc khu dân cư P, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh giữa Công ty Cổ phần Đ và bà Huỳnh Mỹ H ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Công ty Cổ phần Đ có trách nhiệm trả lại cho bà Huỳnh Thị Huyền N số tiền là 18.220.391.800 đồng (Mười tám tỷ hai trăm hai mươi triệu ba trăm chín mươi mốt ngàn tám trăm đồng) ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Giao số tiền 18.220.391.800 đồng (Mười tám tỷ hai trăm hai mươi triệu ba trăm chín mươi mốt ngàn tám trăm đồng) do Công ty cổ phần Đ trả cho bà Huỳnh Thị Huyền N cho Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh tạm giữ để bảo đảm cho việc khắc phục hậu quả của bà Huỳnh Thị Huyền N trong bản án hình sự phúc thẩm số 02/2015/HSPT ngày 07 tháng 01 năm 2015 của Tòa án nhân dân Tối Cao - Tòa phúc thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm:
Công ty Cổ phần Đ phải chịu án phí không có giá ngạch là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0034843 ngày 10 tháng 01 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.
Công ty Cổ phần Đ phải chịu án phí có giá ngạch là 126.220.392 đồng (Một trăm hai mươi sáu triệu hai trăm hai mươi nghìn ba trăm chín mươi hai đồng).
- Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Huỳnh Thị Huyền N không phải chịu án phí, hoàn lại cho bà N tiền tạm ứng án phí phúc thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số: AA/019/0073528 ngày 16 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a; 7b và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán căn biệt thự số 48/2023/DS-PT
Số hiệu: | 48/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 10/01/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về